CÙNG PHÂN TÍCH CÁCH VIẾT TRONG VÀI ĐOẠN VĂN TẢ CẢNH
Tả cảnh : bao gồm tả phong cảnh thiên nhiên (núi rừng, sông biển, ruộng đồng,…), tả cỏ cây, hoa lá, sự vật, tả cảnh sinh hoạt (đường phố, trường học, chợ Tết,..)
Đối với bài văn tả phong cảnh thiên nhiên cần nêu rõ vị trí của cảnh vật những nét đặc sắc của cảnh vật nhìn từ nhiều góc độ khác nhau (địa lí, lịch sử, văn hoá,…), vai trò, tác dụng của cảnh vật đối với cuộc sống của con người.
Đọc đoạn văn: Tả cảnh Hồ Tây.
Hồ Tây, rộng trên 535 mẫu tây, một vòng hồ dài 17 cây số, một đời làm dân Hà Nội, Việt Nam, ta đã vòng chưa ?…
… Con hồ từng mang nhiều tên như nhà thơ có nhiều bút danh, vẫn là gương mặt giai nhân nghìn năm lung linh cho bao thế hệ dân thường cùng tao nhân mặc khách gửi lòng mình niềm yêu mến thân thương. Dâm Đàm — hồ mù sương, lúc nào cũng như tấm khăn voan choàng niềm bí ẩn của đôi mắt lá đào và đôi má lông tơ con gái ta tơ tưởng. Lãng Bạc – những con sóng trắng bạc đầu đấy ư, dù hồ có bao giờ biết tháng năm tuổi tác. Con cáo trắng đào hang trong lòng hồ sâu từ một thước rưỡi đến hai ba thước mà thành tên Hồ Cáo, cho đến Đoài Hổ, Tây Hồ, những cái tên như ỉuyến tiếc, như dư ba thắng cảnh, như khêu gợi lãng du cho đến bây giờ, ta gọi Hồ Tây dân dã…
Đường Thanh Niên quá quen thuộc với người Hà Nội, hoạ chăng chỉ kém bờ Hồ Gươm đôi chút. Ta vào đền Quán Thánh nghe gió ru qua hàng muỗm già cổ thụ mấy trăm năm, chiêm ngưỡng người thợ đúc tài năng đang ngồi thiền. Ông Trùm Trọng, người đúc nên pho tượng đồng đen trong đền. Thời gian phôi phai, nhưng tài năng thì còn mãi, tâm linh cũng chẳng hư hao…
Lướt trên sóng nước trập trùng, ta ngắm gương hổ hình gần giống chiếc càng cua, chỗ ấy là bán đảo, có khu nghỉ mát sang trọng, có phủ Tây Hổ nơi Trạng Bùng gặp cô tiên mà thỉ ca ứng đối, tao phùng, cô tiên chính là chúa Liễu Hạnh, một Mẫu Việt Nam… Có những hoàng hôn đỏ lự, đứng trên đường Thanh Niên, mặt ta gặp mây trời sà xuống phía bờ kia, còn trên mặt sóng là những lá thoi thuyền lướt,, đôi người nào bập bềnh tâm sự, còn ai dong buồm cho chơi vơi một nỗi Trương Chi… Trước mặt là chùa Trấn Quốc, ngôi chùa tịch lặng gần mười thế kỉ với hàng cau như đội quân danh dự xếp hàng chào ngoài cổng, còn sân chùa có cây bồ đề tổng thống Ấn Độ tự tay mang trồng, đã toả bóng như an ủi chúng sinh…
…Xa Hồ Tây bao năm, người bạn phương trời có còn nghe lao xao sóng nước, con cá vàng Hồ Tây quẫy trăng, làn sương chiều êm dịu, những màu hoa quanh hồ tặng cái đẹp cho đời… Xin hãy về đây, xuân đã sang, Hồ Tây vẫn đợi vẫn mong người đấy.
(Băng Sơn -Thú ăn chơi của người Hà Nội)
Cùng suy gẫm:
Chú ý để thấy : Phong cảnh Hồ Tây, một thắng cảnh của thủ đô Hà Nội, qua con mắt và ngòi bút tài hoa của nhà văn Băng Sơn, đẹp như một “gương mặt giai nhân” (theo cách nói của nhà văn). Từ cái tên hồ đổi thay theo tháng năm lịch sử đến những địa danh gắn bó với hồ : đường Thanh Niên, đền Quán Thánh, chùa Trấn Quốc, phủ Tây Hồ được nhà văn miêu tả qua những góc nhìn lịch sử, văn hoá cùng với sự hiểu biết sâu sắc và vốn kiến thức phong phú. Sự kết hợp giữa miêu tả và biểu cảm đã gộp phần không nhỏ tạo nên sức cuốn hút của đoạn văn.
Đối với bài văn tả cỏ cây, hoa lá, sự vật. . cần nêu rõ được những đặc điểm của sự vật tả (hình dáng, kích thước, mầu sắc, đường nét…) vẻ đẹp được nhìn từ những góc độ, thời điểm khác nhau (xa gần, sáng chiều, theo từng mùa…) công dụng, lợi ích đối với cuộc sống của con người.
Đọc đoạn văn : Qua những mùa hoa
Trên con đường từ nhà đến trường, tôi phải đi qua bờ Hồ Gươm. Lúc có bạn thì chuyện trò tíu tít, có khi đuổi nhau suốt dọc đường. Nhưng khi đi một mình, tôi thích ôm cặp vào ngực, nhìn lên các vòm cây, vừa đi vừa lẩm nhẩm ôn bài.
Vì thế, tôi thường là đứa phát hiện ra bông hoa gạo đầu tiên nở trên cây gạo trước đền Ngọc Sơn. Rồi bông nọ gọi bông kia, bông nọ ganh bông kia, chỉ vài hôm sau, cây gạo đã như một cây đuốc lớn cháy rừng rực giữa trời.
Nhưng khi lửa ở cây gạo sắp lụi thì nó lại “bén ” sang những cây vông cạnh cầu Tlĩê Húc. Rồi thì cả một bãi vông lại bừng lên, đỏ gay, đỏ gắt suốt cả tháng tư.
Đến tháng năm thì những cây phượng đón lấy lửa ấy, chạy tiếp cuộc chạy tiếp sức của các loài hoa trong thành phố, báo hiệu những ngày nghỉ hè thoải mái của chúng tôi sắp đến.
Nắng trời vừa bắt đầu gay gắt thì sắc hoa như muốn giảm đi độ chói chang của mình. Hoa phượng màu hồng pha da cam chứ không đỏ gắt như vông như gạo. Đến cái anh bằng lăng thì đã vừa hồng vừa tím. Sang đến anh hoa muồng thì đã ngả hẳn sang sắc vàng chanh.
Nhưng nói chung, đó toàn là những màu sắc rực rỡ như muốn phô hết ra ngoài. Mãi đến năm nay, khi đã lên lớp Năm, đã “người lớn ” hơn một tí, tôi mới nhận ra hoa sấu, những chùm hoa nhỏ xíu, sắc chỉ hơi hoe vàng, chìm lẫn vào từng đợt lá non, lẫn với màu nắng dịu.
Đến khi các loài lioa rực rỡ như hoa gạo, vông, phượng, bằng lăng, muồng,… đã kéo quân qua bầu trời Hà Nội, cây sấu trước cửa nhà tôi mới lấp ló những
chùm quả xanh giòn. Rồi sau đó, quả chín, những quả chín vừa ngọt vừa chua, ngọt một cách e dè, khiêm tốn như tính tình hoa sấu vậy.
(Vân Long – Qua những mùa hoa, SGK Tiếng Việt 5, tập hai, trang 98)
Cùng suy gẫm:
Chú ý để thấy đặc điểm của từng loại hoa, nhất là màu sắc của chúng, được tả qua khoảng thời gian từ đầu cho tới cuối mùa hè. Để văn tả không khô khan, người viết nên đưa vào những nhận xét, cảm xúc của mình. Đó cũng là sự khác biệt giữa miêu tả yà thuyết minh.
Đọc đoạn văn : Bánh cốm, bánh xu xê
Bánh cốm Hàng Than… Một thứ bánh ngon mà cũng không đắt, một thứ bánh gợi cho ta những kỉ niệm rất nhiều màu. Bánh cốm chính là thứ bánh cưới, trao đi đổi lại trong những ngày mùa thu, để chứng nhận cho cái sung sướng của cặp vợ chồng mới, và cái vui mừng của họ hàng. Vuông vắn như quyển sách vàng, bọc lá chuối xanh buộc lạt đỏ ; cái dây lạt đỏ như sợi dây tơ hồng buộc chặt lấy những cái ái ân… Nhân đậu xanh giã nhuyễn, vương mấy sợi dừa, và đường thì ngọt đậm…
… Bánh cốm thường đi đôi với bánh xu xê. Cái tên kì khôi này ở đâu mà ra ? Thứ bột vàng và trong như hổ phách ấy, dẻo và quánh dưới hàm răng, là một thứ bánh rất ngon. Dù sao, cũng là một thứ bột thẳng thắn, vì nó dễ cho ta đoán thấy trước – để mà thèm thuồng- những cái ngon ngọt hơn ẩn náu bên trong. Qua các màu vàng óng ánh ấy, màu trắng của sợi dừa và màu xanh nhạt của đậu thêm một sắc nóng ấm và thân mật. Tôi bao giờ cũng ưa thức ăn nào có một hình sắc đẹp đẽ: cái đẹp lúc trông ngắm giúp nhiều cho cái thưởng thức lúc ăn lắm.
(Thạch Lam — Hà Nội băm sáu phố phường)
Cùng suy gẫm:
Chú ý để thấy : Thạch Lam tả bánh mà đẹp như vẽ một bức tranh “có hình sắc đẹp đẽ” (hình dáng, đường nét, và nhất là màu sắc). Ông không chỉ tả bằng mắt mà còn gợi ra hương vị, cảm giác (ngọt đậm, dẻo và quánh, ấm nóng, thân mật…) làm cho người đọc thấy “thèm thuồng’.
Đối với bài văn tả cảnh sinh hoạt cần làm rõ được khung cảnh chung nơi diễn ra những hoạt động (thời gian, không gian, địa điểm…), lựa chọn những hình ảnh tiêu biểu, đặc sắc cho những hoạt động của người, vật (hình dáng, tư thế, những sự thay đổi, chuyển động..sắp xếp theo trình tự thời gian (trước sau, bắt đầu, kết thúc..không gian (xa gần, trong ngoài..)
Đọc đoạn văn : Cảnh làng quê một ngày đông
Bô tôi bảo chưa có mùa đông nào lạnh ghê gởm như năm nay. Quả thật, mấy ngày nay không gian chỉ toàn màu xám xịt. Gió cuộn thành từng luồng bàng bạc, cuốn theo bao nhiêu là đất, bụi và lá vụn đã queo quắt màu nâu xỉn. Con đường làng phía xa lấp ló trong sương mù. Thỉnh thoảng lại nghe có tiếng cành cây gãy răng rắc.
Một cơn gió lùa qua khe cửa mang thêm cái lạnh giá khiến tôi rùng mình dù đã mặc áo ấm và đang ở trong nhà. Thường những đêm mùa đông, tôi nghe thấy nhiều tiếng động. Đó là tiếng giàn mướp xác xơ, cành quắt lại vỗ vào cọc, là tiếng chân người đi ngoài đường giẫm lên lá khô giòn tan, là tiếng tranh trên mái nhà bị gió khua chạm vào nhau ràn rạt, là tiếng đứa trẻ hàng xóm khốc vì lạnh. Tôi gọi đó là âm thanh mùa đông.
Đã hơn sáu giờ sáng, tôi lấy chiếc khăn len dài quấn quanh cổ và đi ra ngoài. Trời đã sáng hẳn nhưng vẫn chưa nhìn thấy ánh mặt trời. Hơi nước vẫn còn đọng trên các lá cây ướt lạnh. Vậy mà bố tôi đã đi ra đổng từ lúc nào. Tôi lấy thóc cho lũ gà ăn và bỏ thêm ít rơm khô vào ổ cho con gà mái ấp. Rồi tôi đi quét dọn sân và ngõ. Sau mấy phút lao động, tôi cảm thấy nóng người lên. Đứng ở ngõ mà nhìn ra xa, mới thấy được toàn cảnh làng quê tôi. Những mái nhà tranh ẩn dưới luỹ tre xanh. Đôi mái nhà cố dòng khói xanh lặng lẽ bay lên như cô’xua đi những cơn gió lạnh. Phía xa là cánh đồng loáng thoáng đám xanh, đám nâu. Đám xanh là chỗ ương mạ còn đám nâu là mảnh ruộng đang chờ được cấy. Con đường từ làng ra đồng có rặng phi lao xanh, giờ ngả lướt theo chiều gió. Ngoài đồng giờ chắc lạnh và nhiều gió lắm. Tự nhiên, tôi thấy chán mùa đông vì cái lạnh của nó làm đôi chân bố tôi tím bầm mỗi khi bố ở đồng về.
(Theo Hướng dẫn tập làm văn lớp 6, Vũ Nho (chủ biên), trang 107)
Cùng suy gẫm:
Chú ý để thấy những quan sát chính xác và tinh tế của người viết : cảnh vật làng quê (những đám ruộng, con đường, làn khói trên những mái nhà…), những tiếng động trong đêm đông gió lạnh, cảm giác về cái lạnh, công việc hằng ngày của những người trong gia đình… tất cả đã được chọn lọc và trình bày theo một trình tự hợp lí, kết hợp với những cảm xúc chân thành.
Đọc đoạn văn : Tết trên một bản của người Hmông
Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ con đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa. Ở Hồng Ngài người ta thành lệ cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không kể ngày, tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới. Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội.
Nhưng trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ […]. Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã cố tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chới. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi[.:.].
Tiếng chó sủa xa xa. Những đêm tình mùa xuân đã tới.
Ở mỗi đẩu làng đều có một mỏm đất phẳng làm cái sân chơi chung ngày Tết. Trai gái, trẻ con ra sân chơi ấy tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy.
(Tô Hoài – Vợ chồng A Phủ)
Cùng suy gẫm:
Chú ý để thấy những chi tiết tả cảnh vật, tả những sinh hoạt mang đậm nét văn hóa của người dân Hmông trong ngày Tết (mang váy ra phơi, tụ tập đánh quay, đánh pao, thổi khèn, nhảy múa, thổi sáo rủ bạn tình…). Tất cả đã tạo nên không khí Tết ở một bản vùng cao của người dân tộc.