Tương truyền vào một ngày nọ, Nguyễn Khoa Đăng đến thị sát một vùng, thấy quan huyện đang chửi mắng một người dân. Hỏi thì được biết ruộng dưa của bà bị xắn nát hết cả gốc đúng vào độ dưa đang ra quả. Kêu quan thì quan nói không đủ bằng chứng. Nguyễn Khoa Đăng lập tức cho thu hết xẻng của người dân trong làng và ra lệnh ai nấy biên tên vào xẻng; rồi sai người lấy lưỡi liếm vào xẻng và phát hiện một cái có vị đắng. Ông lại sai vắt nước gốc dưa cho người nếm thấy 2 vị đắng giống nhau. Thủ phạm chính là chủ cái xẻng đã phải “thò mặt ra”. Lập tức ông sai lính bắt người kia giải đến. Trước tang chứng và lý lẽ đanh thép của quan, hắn không còn chối vào đâu được, đành cúi đầu nhận tội. Ông bắt hắn phải đền hoa lợi ruộng dưa cho người kia và phạt thêm gấp 2 lần để hắn chừa thói hại người.
Vào một ngày khác, anh hàng dầu gánh dầu ra chợ bán. Trong khi đang bận đong dầu, có kẻ thừa dịp thò tay vào bị lấy trộm tiền. Khi biết mất tiền thì tên ăn cắp đã “cao chạy xa bay”. Anh ta nhớ tới một người mù hồi nãy quanh quẩn bên gánh của mình, đuổi mấy cũng không đi và anh đoán chắc là kẻ cắp. Nghĩ vậy anh bèn gửi gánh hàng cho người quen và đi tìm. Nhưng khi gặp, người mù hết sức chối cãi, rằng mình mù thì còn biết tiền của để ở đâu mà lấy. Hai bên xô xát và bị lính tuần bắt giải quan. Khi ấy, ông bắt 2 bên khai rõ sự tình. Người mù khăng khăng không nhận. Ông liền hỏi: Anh có tiền giắt đi theo đấy không? – Có, nhưng đây là tiền tôi mang đi chợ, không phải của nó – Được cứ đưa ra đây, của ai rồi sẽ biết. Người mù móc tiền ra, ông Đăng sai người múc một chậu nước, rồi bỏ tất cả số tiền vào chậu (tiền kim loại). Tự nhiên thấy trên mặt nước có váng dầu nổi lên. Nghe quan sai bưng chậu nước cho mọi người chứng kiến, người mù hết đường chối, đành chịu tội ngay.
Sau đó, quan nói tiếp: Khoan đã, chưa hết đâu. Tội ăn cắp mới là một. Nếu mày mù tịt thì làm sao biết được tiền người hàng dầu bỏ trong bị, cất trong thúng khảo mà lấy được! Đúng là mày giả mù. Lính đâu. Bắt nó nọc ra đánh cho rõ đau, bao giờ nó mở 2 mắt ra hãy thôi.
Người mù trước còn chối lấy chối để, nhưng chỉ qua 3 roi là hắn mở ngay 2 mắt nhận tội, đúng như lời quan truyền bảo.
Thời xưa, truông Nhà Hồ là vùng rừng rậm, đoạn nằm giữa xã Vĩnh Chấp, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị và xã Sen Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình ngày nay. Vào đầu thời chúa Nguyễn, vùng này có nhiều trộm cướp. Lúc Nguyễn Khoa Đăng đang là Nội tán, có vụ kẻ cướp ở truông Nhà Hồ ăn cướp giấy của lái buôn, không truy được dấu vết gì. Người lái buôn đem việc ấy đến kiện. Ông yêu cầu dân sở tại mỗi người phải khai họ tên, quê quán rồi mang nộp quan, mỗi người một bản. Khi ấy, nhu cầu giấy lên cao, giá giấy do đó đắt lên, tên cướp thấy thế đem giấy ra bán. Nhân thế, bắt được bọn cướp giấy.
Giai thoại dân gian kể lại rằng, để bắt bọn cướp ở truông Nhà Hồ, Nguyễn Khoa Đăng cho làm những hòm gỗ kín có lỗ thông hơi vừa một người ngồi, có thể mở được từ phía trong, rồi cho võ sĩ mang vũ khí ngồi vào trong. Sau đó, ông sai quân sĩ đóng giả dân thường, khiêng những hòm ấy qua truông, ra vẻ như khiêng những hòm của cải nặng, đồng thời đánh tiếng có một vị quan to ở ngoài Bắc sắp về quê sẽ đi qua truông mang theo nhiều hòm của cải quý. Bọn cướp nghe tin, liền phục kích đuổi đoàn người hộ tống, cướp số hòm ấy về tận sào huyệt. Khi về đến nơi, bọn cướp vừa đặt hòm xuống thì các võ sĩ bật nắp hòm cầm vũ khí xông ra đánh giết bọn cướp. Cùng lúc đó, phục binh của triều đình từ ngoài kéo vào, chẳng mấy chốc, đảng cướp bị dẹp tan.