NHỮNG CÂU CHUYỆN VỀ BÁC HỒ (PHẦN 2)
PHÊ BÌNH MÀ THÀNH CÂU CHUYỆN TÂM SỰ
Hằng ngày Bác dậy rất sớm. Nhà chật, gác lụp xụp, Bác vẫn tập thể dục, vươn vai, thở hít. Vận động xong thì Bác dọn dẹp trong nhà. Căn nhà tối tăm, bề bộn của một người nghèo như tôi bỗng trở nên ngăn nắp, quang quẻ, dễ thở hơn, như mới có thêm ánh sáng.
Ban ngày tôi bận cắt tóc. Bác hay xuống bếp chẻ củi, thổi cơm. Anh Kiên nhặt rau. Người vợ cũ của tôi làm ăn vất vả, hóa ra khó tính mà cũng rất hài lòng. Vợ tôi buôn gạo. Kỳ nào có gạo về, Bác cũng ra vác hộ.
Một lần có gạo về, tôi đang bận học, không có người khuân vác. Vợ tôi bực tức gắt gỏng. Tôi giận quá, từ tên gác xuống, rút guốc đánh máy cái. Vợ tôi chưa kịp bù lu bù loa thì Bác đã xuống rồi. Bác phê bình tôi: Sao anh lại làm như thế? Rồi Bác rủ anh Kiên và tôi cùng ra vác gạo. Bác bảo: Vác gạo cũng quan trọng. Không vác gạo thì không có ăn ngay. Được nghe Bác nói, vợ tôi chừng cũng hả lòng, không mè nheo dai dẳng như mọi khi. Buổi tối, Bác lại phê bình tôi một lần nữa, Bác phân tích tại sao người đàn bà nghèo khổ phải gắt gỏng, truy đến gốc nỗi khổ của những người bị bóc lột, Bác hỏi tôi đã là một đảng viên sao còn hành động như thế? Bác nói: Về việc đoàn thể thì rất có thể chỉ vì hành động sai lầm cỏn con như thế mà lộ bí mật. Bác nói rất thấm thía. Tuyệt nhiên Bác không gắt gỏng hay bực bội, nên tôi nghe ra ngay. Bác phê bình mà thành câu chuyện tâm sự, thấu vào tận ruột, tận gan.
Nhớ lại lúc đầu gặp gỡ, Bác không vồ vập nhưng Bác đi sâu vào đời sống gia đình giúp đỡ mọi việc thực tế, quan tâm thực sự đến đời sống vật chất và tinh thần của chúng tôi, nên Bác cảm hóa được mọi người trong nhà, tạo được một nếp sống khác hẳn. Nhất là đối với cháu Hải, Bác săn sóc thật chu đáo, hơn cả tôi là bố nó. Nó ngủ nghẹo đầu thì Bác sắp gối, nhẹ nhàng đặt nó nằm thẳng lại. Đêm Bác dậy mấy lần để đắp lại chăn cho nó. Bác luôn luôn lo cho nó ấm, đề phòng nó sưng phổi. Bác sờ bụng nó thấy ăn no mà giải rút buộc chặt thì lại nới ra. Nhiều lần Bác tắm cho nó, dặn nó phải ở sạch. Ngồi ăn cơm tuy chúng tôi là chủ nhà, Bác vẫn giục chúng tôi gắp thức ăn. Bao giờ Bác cũng gắp thức ăn cho cháu Hải trước.
PHẢI LẮNG NGHE Ý KIẾN CỦA QUẦN CHÚNG
Dù bận nhiều việc làm, nhưng Bác rất quan tâm tới công tác văn nghệ. Bác dạy chúng tôi, một cách hết sức nhẹ nhàng. Tưởng Bác đùa, nhưng càng ngẫm càng thấy ý nghĩa sâu sắc vô cùng trong mỗi câu nói vui, bình thường của Bác. Có một dạo anh Đinh Đăng Định theo Bác đi công tác. Về rồi, một hôm Bác gọi anh sang ăn cơm và nói:
- Hôm trước chú chụp khá nhiều đấy. Bây giờ rửa ảnh ra xem cái nào dùng lược, đưa qua Bác coi. Còn thì cất đi. Rồi Bác cười với chúng tôi: "Cái gì cũng đưa ra hết sao!".
Các bài báo của Bác, nghĩ đến đâu Bác đánh máy đến đấy. Bác không viết trước. Bác đánh từ từ, chậm rãi, đánh mổ cò bằng hai ngón tay. Anh Đinh Đăng Định đến xin chụp ảnh Bác, vừa đưa máy ảnh ngắm, Bác vội khoát tay.
- Không, Bác đánh mổ cò thế này... để Bác sửa lại đã. Không thì người ta cười cho!
Chẳng những Bác dạy chúng tôi đừng có tự nhiên chủ nghĩa trong nghệ thuật phải có một kiến thức rộng rãi, mà còn phải lắng nghe ý kiến quần chúng.
PHẢI DÂN CHỦ VỚI DÂN
Khoảng 11 giờ thì đến Vật Lại, bà con xã viên, các cụ phụ lão, các cháu thiếu nhi chờ đón từ đầu đường rẽ lên đồi. Bác vui vẻ cùng mọi người quây quần dưới tán bạch đàn.
Bác thân mật nghe cán bộ địa phương báo cáo và hỏi chuyện mọi người. Bác nói với chị Nguyệt, con cụ Chu Công Tự, chiến sĩ trồng cây của xã Vật Lại: "Các cụ thì biết chuyện cũ, chuyện mới nhưng các cháu ngày nay chỉ biết chế độ dân chủ cộng hoà. Đất nước bây giờ là của ta cho nên cần phải thi đua sản xuất giỏi trồng cây giỏi".
Chị Đỗ Thị Soạn, trưởng thành từ phong trào Cô gái Đại Phong, nay là Bí thư Đảng uỷ xã Tòng Bạt, báo cáo với Bác phong trào nhân dân trong xã. Nghe xong, Bác dặn: "Phải dân chủ với dân. Phải để cho dân phê bình cán bộ, đảng viên". Bác hỏi đồng chí Hán, Chủ nhiệm Hợp tác xã Hợp Thịnh: "Hợp tác xã có hay liên hoan chè chén không?". Đồng chí Hán báo cáo:
- Thưa Bác! Hợp tác xã chúng cháu dạo này không ăn uống xa phí nữa. Có người cho chúng cháu là keo kiệt.
Bác cười rất hiền và động viên:
- Cháu làm thế là đúng, là biết giữ gìn của cải cho xã viên.
Tôi ngồi nhìn Bác, chăm chú nghe cuộc đối thoại giữa vị Chủ tịch nước với người dân bình thường và phát hiện ra một điều là Bác Hồ đi trồng cây nhưng đang nói chuyện "trồng người". Cuộc đối thoại này, những lời dạy đầu năm này của Bác, ngày mai sẽ bay đi khắp đất nước, bổ sung vào đợt giáo dục đạo đức cách mạng do chính Bác phát động.
Bác cùng các cụ trồng cây. Khung cảnh chung quanh thật đẹp. Nắng xuân ấm áp. Lúa đang lên xanh. Một cụ già tóc bạc, da dẻ hồng hào, giữa đàn con cháu... Tôi nhớ đến câu:
Vì lợi ích mười năm, trồng cây
Vì lợi ích trăm năm, trồng người.
Mùa xuân cuối cùng của cuộc đời, Bác Hồ vẫn chăm lo việc trồng cây, trồng người.
CHÚ ĂN NO MỚI CÀY ĐƯỢC, SAO ĐỂ TRÂU GẦY ĐÓI THẾ?
Bác cùng đồng chí bảo vệ đi về khu ruộng Song nơi xã viên đang gặt lúa. Qua khu đồng Con Cá tổ cày của hợp tác xã đang cày ruộng. Bác tới nơi mọi người đều ngỡ ngàng, gặp hai ông Nguyễn Hữu Uy và Nguyễn Đức Lân đang cày dưới ruộng, ông Uy đang dùng một con trâu vừa gầy vừa đói để cày ruộng. Bác hỏi ông Uy:
- Chú ăn cơm sáng chưa?
Ông Uy trả lời Bác:
- Thưa Bác cháu ăn cơm sáng rồi ạ!
- Chú ăn no mới cày được tới trưa! Sao lại để con trâu gầy đói thế?
Ông Uy đang lúng túng, ngượng ngùng chưa biết trả lời Bác ra sao, Bác nói tiếp:
- Con trâu là đầu cơ nghiệp, phải chăm sóc tốt thì nó mới đủ sức khỏe để cày sâu, bừa kỹ, mới sản xuất được ra nhiều lúa gạo cho dân ta ấm no, nước ta giầu mạnh.
Bác bảo ông Uy:
- Chú hạ cái cày xuống thêm một nấc để đường cày được sâu thêm.
Lời nói chân tình, giản dị nhưng vô cùng sâu sắc của Bác làm cho mọi người càng thấm thía, ai cũng không ngờ rằng ở Bác một lãnh tụ của Đảng, của dân tộc lại am hiểu tường tận công việc nhà nông đến như
BÀI HỌC VỀ CÁCH NÓI, CÁCH DÙNG TỪ
Ở Bác tỏa ra một sự tươi tắn, mát mẻ, một niềm vui thường xuyên và một tình thương rộng lớn. Tôi hiểu rằng Bác thương yêu và Bác vui thích gặp những đứa con của miền Nam, nơi luôn luôn ở trong tâm của Bác. Tôi lặng nhìn chòm râu bạc, đôi mắt sáng, nụ cười tươi mát đang hấp dẫn tôi đến mức tôi thật sự không còn để ý đến sự có mặt của những người chung quanh.
Bác bắt tay anh chị em chúng tôi rồi vui vẻ chỉ ghế mời chúng tôi ngồi. Bác hồn nhiên, cởi mở, chủ động và gần gũi với tất cả đàn con đang quây quần chung quanh Người.
Vào câu chuyện. Bác nói lên một câu nói trang trọng đầy tình nghĩa. Nhìn Thủ tướng Phạm Văn Đồng rồi nhìn sang chúng tôi khắp lượt, Bác nói, giọng chậm rãi, ôn tồn, ấm áp:
- Hôm nay tôi và đồng chí Phạm Văn Đồng thay mặt 20 triệu đồng bào miền Bắc hoan nghênh các cô các chú trong Liên minh ra thăm miền Bắc.
Bác lần lượt hỏi thăm sức khỏe mỗi người chúng tôi. Người hỏi về chuyến đi từ trong vùng giải phóng miền Nam ra đến miền Bắc có an toàn không? đi bằng phương tiện gì? đường sá như thế nào? ăn uống ra làm sao? Bác lại hỏi gia đình của mỗi chúng tôi hiện ở đâu? Có được an toàn không? Sinh sống làm ăn như thế nào? Bác hỏi rất tỉ mỉ, rất thân tình. Chúng tôi không dám nói nhiều về bản thân nhưng khi nghe chúng tôi trả lời ngắn Bác lại hỏi thêm một số chi tiết cho đầy đủ. Thấy tôi đeo kính cận thị Bác hỏi kính nặng mấy điốptơri. Rõ ràng là Người có sự quan tâm rất mực của một người cha hiền.
Bác hỏi chúng tôi rất kỹ về tình hình vùng giải phóng, vùng đô thị bị tạm chiếm. Nghe kể về Huế, Bác rất chăm chú, thỉnh thoảng Bác gợi lại vài kỷ niệm từ của thời thơ ấu, nhắc tới những nơi Bác đã từng sống qua: trường Quốc học, thành nội, chợ Xép, quán Ao Hồ, cầu Tràng Tiền... Bác hỏi ở Huế có những chén chè nho nhỏ để trên cái trẹt bán mỗi chén một tiền nay còn không? Bác nhắc tới tên vài đường phố cũ ở Huế mà thuở nhỏ Bác đi học ở đây thường qua lại. Trí nhớ của Bác thật dồi dào, Bác hồ hởi nhắc lại tuổi trẻ của mình bên bờ sông Hương. Giọng Bác thực sự xúc động khi hỏi sông Hương hiện nay còn đẹp không? đồng bào mình dưới ách Mỹ ngụy khổ đến mức nào? Câu nói của Bác dạt dào tình thương vô hạn đối với đồng bào miền Nam và gợi lên trong lòng chúng tôi một nỗi xốn xang căm thù da diết kẻ thù cướp nước và bán nước. Miền Nam! miền Nam còn chưa giải phóng. Chúng tôi xót xa nghĩ tới miền Nam khi đang được ngồi dưới bầu trời miền Bắc, bên cạnh Cha già, hiện thân vĩ đại của độc lập, tự do.
Bác nói bằng lời văn giản dị, nôm na, ngắn gọn, cô đúc mà chúng tôi thấy thật là mới mẻ, nhẹ nhàng. Ở vùng tạm bị chiếm miền Nam, cả đến ngôn ngữ cũng bị vẩn đục, lai căng, pha tạp. Những lời nói của Bác đối với tôi là cả một bài học lớn về tiếng nói, cách nói, cách dùng từ. Ngôn ngữ của Bác giàu hình tượng, sinh động như trong ca dao tục ngữ. Bác dùng chữ, đặt câu rất giản dị và chuẩn xác. Nếu có ai trong chúng tôi dùng chữ chưa được chuẩn, sử dụng những từ Hán Việt nặng nề, phức tạp, không cần thiết thì Bc nhẹ nhàng vui vẻ chữa lại cho chúng tôi.
Qua cuộc nói chuyện, Bác đánh giá cao những hy sinh gian khổ, những sự tích anh hùng của đồng bào ta ở hai miền với một tấm lòng ưu ái đặc biệt dành cho miền Nam tiền tuyến đầu sóng ngọn gió. Bác nhắc nhở chúng tôi đức khiêm tốn và ý chí tiếp tục phấn đấu, đừng tự cao, tự mãn, Bác bảo chúng tôi:
- Giỏi thì có giỏi thật đấy nhưng nói gì thì nói chứ đừng vội kết luận rằng dân tộc Việt Nam ta là nhất thế giới nhé!
Mọi người chúng tôi lấy làm vui được nghe Bác truyền cho bài học khiêm tốn, giản dị mà sâu sắc ấy. Ở gần bên Bác vừa cảm thấy được động viên, cổ vũ khích lệ rất nhiều, đồng thời cũng cảm thấy mình chưa làm được bao nhiêu so với yêu cầu của thực tế và lòng mong muốn của Bác.
TIẾT KIỆM
Sáng 24-7-1957, buổi tiễn đoàn đại biểu nước ta diễn ra trước nhà Chủ tịch Zawasdzki. Đúng 9 giờ, Chủ tịch nước Ba Lan Zawasdki cùng Bác từ trên gác bước xuống tầng dưới đến một gian phòng rộng hàng ngàn thước vuông với ba chùm đèn có đến hàng mấy trăm ngọn sáng trưng, trong khi mặt trời đã lên cao. Bỗng nhiên Bác hỏi:
- Vụ trưởng Lễ tân có mặt ở đây không?
Mọi người ngạc nhiên chưa biết Bác hỏi để làm gì. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nước bạn bước lại gần Bác:
- Thưa Chủ tịch, Vụ trưởng Lễ tân đang ở ngoài sân bay. Tôi là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Xin Chủ tịch chỉ thị.
Bác hỏi:
- Chỗ tắt điện ở đâu?
Mấy chiến sĩ bảo vệ vội vàng chạy đi tắt đèn. Chủ tịch Zawasdzki quay mặt đối diện với Bác, nói nghiêm trang:
- Xin cảm ơn đồng chí Hồ Chí Minh. Tôi chân thành nhận khuyết điểm chưa nghiêm túc thực hiện chỉ thị tiết kiệm của Lênin.
PHẢI CHĂM CHỈ HỌC TẬP
Ít lâu sau, tôi được sang làm việc bên Bác. Hàng ngày Bác làm việc ở nhà riêng. Thường Bác tự đánh máy lấy. Hết giờ làm việc, Bác cùng sinh hoạt chung với anh em. Vui nhất là sau giờ làm việc buổi chiều. Bác thường cùng anh em trong cơ quan đánh bóng chuyền. Bác già, tay cứng nên búng bóng yếu, "đối phương" muốn ghi điểm, thường phát bóng vào chỗ Bác, Bác biết liền nói to:
- A, "truy tủ" hả. Bác vừa nói vừa nhảy lên đỡ bóng.
Có lần đối phương phát bóng "ác" quá, Bác biết không đỡ được, liền kêu:
- Trường, Kỳ, Kháng, Chiến đâu? Cứu bóng! Người đánh lẫn người xem cười vui vẻ.
Bấy giờ theo chính sách đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, cơ quan chọn cử một số cán bộ trẻ ra nước ngoài học. Tôi cũng ở trong số đó. Nhưng tôi không muốn đi. Biết được điều đó, Bác liền gọi đến. Bác hỏi, tôi trả lời Bác:
- Dạ, thưa Bác, cháu muốn được công tác ạ.
- Thế cháu có muốn công tác thật tốt không?
- Có ạ.
- Có muốn phục vụ nhân dân được không?
- Có ạ.
- Thế thì phải đi học. Bây giờ có điều kiện thì phải học tập. Học tập để hiểu nhiều, biết nhiều. Có hiểu nhiều biết nhiều, mới phục vụ nhân dân tốt được
Sau khi giảng giải và khuyên tôi đi học là cần thiết, Bác dặn:
- Đi học thì phải chịu khó, chăm chỉ học tập. Chưa hiểu thì hỏi, không được giấu dốt, đã hiểu rồi thì bảo lại cho bạn cùng hiểu.
Rồi Bác lấy cái hộp thuốc lá của Bác đưa cho tôi. Bác nói:
- Bác cho cháu cái hộp này để đựng kim chỉ, ngoài giờ học thêu, thùa, vá, may. Con gái phải biết làm những việc đó.
Tôi sang nước bạn ở khu học xá, rồi vào trường sư phạm. Tốt nghiệp xong, tôi về nước, dạy học ở Việt Bắc cho đến ngày chiến thắng thực dân Pháp, tôi mới về thủ đô.
CHIẾN LƯỢC TRĂM NĂM TRỒNG NGƯỜI
Cũng trong cuộc hội đàm, sau khi phía Cộng hoà Dân chủ Đức báo cáo xong những thành quả đã thu được trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Bác hỏi:
- Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lĩnh vực nào là quan trọng nhất?
- Thưa Chủ tịch, đó là lĩnh vực xây dựng con người xã hội chủ nghĩa. - Thủ tướng trả lời.
Bác hỏi tiếp:
- Các đồng chí dự kiến bao nhiêu năm thì hoàn thành.
- Thưa Chủ tịch, khoảng bốn thế hệ.
Bác hỏi tiếp:
- Mỗi thế hệ là bao nhiêu năm?
Tổng Bí thư nhìn Thủ tướng có vẻ trao đổi bằng ánh mắt. Thủ tướng nói:
- Thưa Chủ tịch, mỗi thế hệ khoảng 20 đến 25 năm.
Bác có vẻ tán đồng:
- Trăm năm trồng người là đúng.
Đây là một công việc lâu dài và rất quan trọng.
AI CÓ TRÁCH NHIỆM TRỒNG NGƯỜI
Theo quy chế của Bộ Ngoại giao ta, khi có đoàn đại biểu trong nước đến nước nào thì vị đứng đầu Đại sứ quán Việt Nam tại nước đó phải đến sớm nhất để báo cáo với đoàn tình hình thế giới, trong nước, nước sở tại và kế hoạch làm việc hôm đó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh dậy đúng 5 giờ 30, tập thể dục 30 phút rồi tắm. Bác hẹn tôi đúng 6 giờ 15 đến báo cáo với Bác. Thật hạnh phúc cho tôi, suốt tám ngày ở Cộng hoà Dân chủ Đức, ngày nào tôi cũng được làm việc với Bác vào 6 giờ 15. Sáng 27-5 tôi vào đã thấy Bác ngồi chờ. Sau khi nghe tôi báo cáo thật tóm tắt, Bác đẩy bao thuốc lá sang phía tôi và hỏi:
- Cuộc hội đàm hôm qua chú thấy vấn đề gì bổ ích nhất cho ta?
- Thưa Bác, cháu cho rằng chiến lược trăm năm trồng người rất bổ ích cho ta.
- Chú nói đúng.
Tôi chưa dám hút thuốc lá.
Bác lấy thuốc đưa tôi, hỏi tiếp:
- Chú quê ở xã nào?
- Thưa Bác, nhà cháu cùng xóm với Cụ Phan Bội Châu, làng Đan Nhiễm, gần Kim Liên.
Bác tỏ thái độ rất vui, hỏi con cháu Cụ Phan ai còn ai mất, làm ăn xa sao. Sau đó Bác nhìn tôi và hỏi:
- Ở cương vị chú, chú sẽ làm gì để góp sức với đất nước về sự nghiệp trồng người?
- Thưa Bác, ở bên này cháu cố gắng học hỏi kinh nghiệm và đi thực tế để xem các đồng chí làm như thế nào rồi thường xuyên báo cáo đầy đủ về Trung ương Đảng và Bộ Ngoại giao.
Nói xong, tôi tự nghĩ "chắc Bác bằng lòng". Không ngờ Bác nghiêm mặt:
- Chú cũng quan liêu giấy tờ đến thế?
Thấy tôi đỏ mặt cúi đầu, Bác hạ giọng:
- Bác và Trung ương giỏi lắm thì đánh xong giặc. Xây dựng con người là trách nhiệm nặng nề của thế hệ chú và con chú. Chú còn làm gì nữa?
- Thưa Bác, cháu chăm sóc 149 thiếu nhi đang học tại Cộng hoà Dân chủ Đức.
Nói xong tôi tưởng Bác hài lòng, vì Bác luôn hỏi về việc các cháu học tập, sức khoẻ và đạo đức ra sao. Lần này Bác phê bình nhẹ nhàng:
- Cách làm của chú chưa đúng. Muốn đi xa, phải bắt đầu đặt chân gần nhất. Trước hết chú phải giáo dục con chú, anh chị em trong Đại sứ quán, các cháu sinh viên, từ đó cả tập thể cán bộ nhân viên Đại sứ quán và sinh viên chăm lo cho các cháu thiếu nhi. Một mình chú dù giỏi cũng không làm tốt. Rèn luyện các cháu về đạo đức phong cách, lối sống của dân tộc ta không phải chỉ bằng lời, mà phải bằng hành động gương mẫu của tập thể người lớn ở bên này. Người lớn thiếu gương mẫu thì không ai theo.
GIÁO DỤC CÁC CHÁU TIẾN BỘ NHIỀU HƠN NỮA
Ngày 14-6-1969, Bác lại cho mời chúng tôi đến gặp Bác tại nhà. Chúng tôi vừa mừng vừa lo; mừng vì được gặp Bác, nhưng lo không biết Bác gọi về việc gì. Chúng tôi bồi hồi xúc động nghe Bác căn dặn về việc giáo dục các cháu miền Nam đang học tập ở miền Bắc. Bác biết rõ đầy đủ tình hình các trường học sinh miền Nam. Bác nêu tên một số cháu ngoan và một số cháu còn chậm tiến bộ. Bác bảo chúng tôi: Các cháu miền Nam ra đây xa gia đình, xa quê hương, các cô, các chú phải quan tâm đến tình cảm của các cháu và có trách nhiệm giáo dục cho các cháu tiến bộ. Ngoài việc nuôi dưỡng, dạy dỗ các cháu còn cần phải có tình cảm thật sự thương yêu các cháu. Vì kháng chiến chống Mỹ mà các cháu phải sống xa quê hương, xa gia đình. Bác còn căn dặn chúng tôi phải đem hết tinh thần trách nhiệm cùng với các cơ quan, đoàn thể, các ngành và địa phương có liên quan ở miền Bắc giáo dục cho các cháu tiến bộ nhiều hơn nữa. Chúng tôi hứa với Bác cố gắng làm đúng những lời Bác chỉ bảo để Bác vui lòng.
Nghe những lời dạy bảo ân cần của Bác, chúng tôi càng thấm sâu tấm lòng yêu thương của Bác đối với miền Nam, đối với thế hệ tương lai của đất nước. Chúng tôi xúc động hẳn khi biết Bác gọi chúng tôi đến căn dặn việc giáo dục các cháu miền Nam sau ngày 10-5 là ngày Bác viết Di chúc để lại cho toàn dân ta. Kể làm sao cho hết tấm lòng của Bác đối với đồng bào, chiến sĩ, thanh thiếu nhi miền Nam!
Tình cảm của Bác đối với miền Nam sâu rộng hơn biển Đông. Công ơn của Người đối với miền Nam cao dày hơn dãy Trường Sơn. Nhân dân miền Nam đời đời ghi nhớ công ơn của Bác!
VIỆC NÀO CŨNG CÓ TẦM QUAN TRỌNG CỦA NÓ
Mọi việc Bác nêu ra đều thiết thực, ngắn gọn, cụ thể. Lời lẽ của Bác là những lời lẽ quen thuộc, mộc mạc, nhân dân thường dùng từ xưa đến nay trong sinh hoạt hằng ngày. Chỉ có khác ở chỗ Bác đã đưa vào đó một nội dung mới. Nhưng dù mới đến đâu, người nghe vẫn thấy dễ hiểu, hợp lý, hợp tình.
Các việc Bác nêu lên để yêu cầu đồng bào thực hiện đều là những điều Bác đã làm bền bỉ trong suốt cuộc đời. Nếu là những điều bây giờ mới đề ra thì Bác gương mẫu làm trước. Ví dụ như việc hô hào nhân dân mười ngày nhịn ăn một bữa để cứu đói. Mỗi tháng ba lần, đến bữa không ăn, Bác tới lấy phần gạo của mình, tự tay đổ vào hòm gạo chống đói. Một hôm, đúng vào bữa cơ quan nhịn ăn để gom gạo thì Tiêu Văn mời Bác đến dự chiêu đãi. Khi Bác về, anh em báo cáo đã đem gom phần gạo của Bác rồi. Bác vẫn quyết định nhịn ăn một bữa vào ngày hôm sau.
Đối với Bác, việc lớn, việc nhỏ, việc nào cũng có tầm quan trọng của nó. Bác thường dặn cán bộ tự mình "phải làm gương mẫu cho đồng bào", "miệng nói tay phải làm" "chớ vác mặt làm quan cách mạng cho dân ghét, dân khinh, dân không ủng hộ".
Bác dành nhiều thời giờ đi thăm các nơi xa gần. Nhiều cuộc đi thăm, Bác không cho báo trước. Khi Bác đi thăm hội nghị thanh niên, khi thăm cơ quan Uỷ ban Hành chính Hà Nội, Trường Quân chính Việt Nam... Khi Bác đi Nam Định, thăm nhà máy dệt, khi đi Bắc Ninh, Thái Bình. Ngoài việc động viên, giáo dục, Bác còn muốn tìm hiểu tình hình đời sống, tư tưởng, tình cảm của nhân dân và cách thức làm việc của cán bộ.
NHIỆM VỤ NẶNG NỀ NHƯNG CŨNG HẾT SỨC VINH QUANG CỦA CÁC THẦY, CÔ GIÁO
Bác đến. Cả hội trường reo lên. Bác vẫy tay chào mọi người, rồi bước lên bục nói chuyện. Nhìn thấy Bác, tôi vui sướng quá, nước mắt cứ trào ra. Bác mặc bộ quần áo kaki đã bạc trắng, và vẫn đi đôi dép cao su. Bác khỏe lắm, nước da đỏ hồng. Râu tóc đã bạc nhiều. Nhưng vẫn ánh mắt dịu dàng và nụ cười hiền hậu, gần gũi năm xưa... Ánh mắt, nụ cười mà tôi không bao giờ quên được.
Bác nói chuyện với chúng tôi rất vui, rất sôi nổi. Bác hoan nghênh năm học vừa qua các thầy giáo, cô giáo đã có nhiều cố gắng.
Bác nói:
- Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước tiên phải có con người xã hội chủ nghĩa. Các thầy giáo, cô giáo là những người đào tạo cho Tổ quốc những con người mới. Các thầy giáo, cô giáo phải thấy nhiệm vụ đó là hết sức vinh quang nhưng cũng vô cùng nặng nề, mà mỗi người đều phải cố gắng vượt bậc mới hoàn thành được...
KỶ LUẬT PHẢI NGHIÊM VỚI BẤT CỨ AI
Gặp cán bộ ngoại giao Bác thường dặn: "Các cô các chú phải luôn rèn luyện phẩm chất chính trị, giữ gìn tư cách, phẩm chất của người làm công tác đối ngoại". Bác đặc biệt quan tâm đến vấn đề nhân sự, nhất là việc bổ nhiệm các đại sứ. Chúng tôi nhớ về một việc đã làm Bác không vui. Một đồng chí vụ trưởng, cán bộ lâu năm, đã được quyết định giữ chức đại sứ tại một nước ở Đông Âu. Trước ngày lên đường đi trình Quốc thư, Bác nhận được báo cáo về việc đồng chí đó đã tổ chức một bữa tiệc "khao" linh đình. Sau khi xác minh sự việc đó là đúng, Bác xót xa và rất buồn khi dân và nước đang khổ, thì đồng chí này đã lãng phí như vậy. Vì vậy, Bác quyết định đình chỉ công tác đại sứ của đồng chí này. Bác phê bình, kiểm điểm để làm gương cho mọi người. Trong việc này Bác tỏ ý không vui, Bác nói: "Kỷ luật phải nghiêm với bất kỳ ai".
KHÔNG NÊN ĐẠO TO BÚA LỚN
Những người tiếp cận với Bác đều thấy rõ Bác Hồ làm việc hàng ngày theo một chương trình rất chặt chẽ. Bất kỳ lúc nào từ giờ giấc tiếp khách đến sinh hoạt, hội họp, Bác không bao giờ trễ một phút. Từ phong cách làm việc đó, Bác có lúc đã nghiêm khắc phê bình hiện tượng vi phạm kỷ luật lao động. Ở Vụ Thông tin báo chí Bộ Ngoại giao, trong một ngày chủ nhật, đồng chí Th. được phân công trực. Văn phòng Bác gọi điện thoại nhiều lần về một bài trả lời phỏng vấn của Bác phải làm ngay nhưng không có hồi âm. Ngay hôm sau, đã có một cuộc kiểm thảo. Điện thoại của đồng chí Vũ Kỳ tới Bộ và Vụ đã dặn: "Sự việc tác hại không lớn, nhưng cần nghiêm túc kiểm điểm cán bộ này, giúp đỡ sửa chữa khuyết điểm tránh đao to búa lớn". Có đồng chí lãnh đạo của Bộ yêu cầu phải nghiêm khắc và đề xuất hình thức kỷ luật đồng chí Th. để làm gương cho cán bộ khác. Khi kiểm tra, được biết đồng chí Th. vốn là một người xưa nay có ý thức tổ chức kỷ luật, nhưng không may lúc đó bị "Tào Tháo đuổi" và phải đến phòng y tế xin thuốc.
Lại có thêm một cú điện thoại nữa từ Văn phòng, Bác căn dặn: Không nên đao to búa lớn việc này.
Có lẽ mọi diễn biến đã được báo cáo lên Bác. Chỉ một sự việc nhỏ như vậy, của một cá nhân thôi mà Bác đã trực tiếp quan tâm. Kết quả là hình thức xử lý đã được điều Chỉnh một cách ôn hoà có lý, có tình. Mọi người chúng tôi đều cảm động về phong cách kiểm tra, giúp đỡ phê bình nghiêm túc và đầy lòng nhân ái của Bác
THẦY HỌC CỦA BÁC LÀ NHÂN DÂN
Một lần, Bác từ chiến trường Tây Bắc về, tạt vào cơ quan Hội Phụ nữ. Ta vừa chiến thắng, Bác rất vui, Bác nói: Các cô ở nhà có tiến bộ không, Bác đi công tác ở mặt trận, tiến bộ nhiều lắm. Thầy học của Bác là bộ đội, là dân công, là nhân bản. Bác bảo Bác có quà cho các cô, nhưng phải đoán đúng thì Bác mới cho. Chúng tôi, người đoán là kẹo, người đoán là bánh, có người lại đoán là nước hoa... Bác chỉ cười. Cuối cùng Bác đưa ra, mới biết đó là mấy hộp dầu cao. Bác bảo mùa rét sắp tới, Bác cho các cô để dùng cho khỏi bị cảm lạnh. Hồi ấy, tiết trời đã sang đông, chị em mới học đan được kiểu mũ người đi núi, đội ấm cả đầu và cổ, nhiều người đã đan gửi cho chồng. Trông thấy Bác đầu trần, chị Thanh Hương hỏi Bác đã có mũ chưa, Bác trả lời có rồi. Chi Thanh Hương xin xem rồi lại xin Bác đội lên. Quả tình cái mũ vừa cũ vừa không đẹp. Chị Thanh Hương chê là xấu lắm! Bác bảo: "Chẳng biết các cô đan đẹp thế nào mà chê mũ của Bác xấu.
Tối hôm ấy, chị em bàn nhau phải đan biếu Bác một cái mũ thật đẹp. Chị Mỹ Hảo, người khéo tay nhất bấy giờ được chị em giao cho công việc ấy. Chị đan một mạch đến khuya thì xong. Vốn biết Bác có vật gì quý đều đem thưởng bộ đội hoặc biếu các cụ phụ lão, chúng tôi lo rằng cái mũ cũng sẽ không được Bác dùng.
Chúng tôi bàn nhau là phải viết thư gửi theo thưa với Bác là cái mũ này các cháu mỗi người đan mươi hàng, biếu Bác, mong Bác giữ mà dùng, may ra Bác nể tình mà giữ lại. Bẵng đi một thời gian, một hôm chị Thanh Hương và tôi lại được dự một cuộc họp. Bác đến, tất cả đại biểu nữ, như thường lệ, được gọi lên ngồi ở hàng ghế đầu Chúng tôi nhìn lên chủ tịch đoàn thấy Bác rút trong túi ra cái mũ len chúng tôi gửi biếu, chúng tôi rất sung sướng.
Một hôm, Bác đem đến cho ba cái áo len. Chị Hoàng Thị Ái bấy giờ phụ trách cơ quan không dám nhận và thưa là để Bác cho các chiến sĩ có công. Bác bảo: "Bác có cho các cô đâu mà các cô từ chối. Đây là Bác cho các cô để bảo các cô biết cách trọng người già. Một cái các cô biếu Bác Tôn, một cái các cô biếu mẹ liệt sĩ Bùi Thị Cúc, còn một cái để dành đấy, khi cần thì có tặng phẩm mà dùng".
Tất cả sự săn sóc của Bác động viên chúng tôi phấn đấu vươn lên. Cơ quan dần dần được tổ chức ngăn nắp, vườn rau xanh tốt quanh năm và có cả một ruộng ngô. Nhưng tôi nghĩ đối với tất cả cán bộ nữ được Bác quan tâm chăm sóc lúc bấy giờ, điều quý báu nhất mà chị em giữ được là: Lòng thiết tha đi sâu vào thực tiễn đấu tranh cách mạng. Tìm ở đấy những bài học cho công tác, chị em luôn luôn suy nghĩ chăm nom đời sống phụ nữ, nhi đồng cũng như luôn nghĩ tới các bậc phụ lão đáng kính.
BA CHIỀU TRÁCH NHIỆM
Báo Cứu quốc số 69, ngày 17-10-1945 có đăng "Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng". Bác viết:
"Tôi vẫn biết trong các bạn có nhiều người làm theo đúng chương trình của Chính phủ, và rất được lòng nhân dân. Song cũng có nhiều người phạm những lầm lỗi rất nặng nề. Những lầm lỗi chính là:
1. Trái phép - Những kẻ Việt gian phản quốc, chứng cớ rõ ràng thì phải trừng trị đã đành, không ai trách được, nhưng cũng có lúc vì tư thù, tư oán mà bắt bớ và tịch thu làm cho dân oán thán.
2. Cậy thế - Cậy thế mình ở trong ban này ban nọ, rồi ngang tàng phóng túng muốn sao được vậy, coi khinh dư luận không nghĩ đến dân. Quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy thế với dân.
3. Hủ hóa - Ăn uống cho ngon, mặt muốn cho đẹp, càng ngày càng xa xỉ, càng ngày càng lãng mạn, thử hỏi tiền bạc ấy ở đâu ra?
Thậm chí lấy của công dùng vào việc tư, quên cả thanh liêm, đạo đức. Ông uỷ viên đi xe hơi, rồi bà uỷ viên, cho đến các cô các cậu uỷ viên, cũng dùng xe hơi của công. Thử hỏi những hao phí đó ai phải chịu?
4. Tư túng - Kéo bè, kéo cánh, bà cô bạn hữu mình, không tài năng gì cũng kéo vào chức này chức nọ. Người có tài có đức, nhưng không vừa lòng mình thì để ra ngoài. Quên rằng việc là việc công, chứ không phải việc riêng gì dòng họ của ai.
5. Chia rẽ - Bênh vực lớp này, chống lại lớp khác, không biết làm cho các từng lớp nhân thương lẫn chau, hoà thuận với nhau...
6. Kiêu ngạo - Tưởng mình ở trong cơ quan chính phủ là thần thánh rồi. Coi khinh dân gian, nói phô, cử chỉ lúc nào cũng vác mặt "quan cách mạng" lên. Không biết rằng, thái độ kiêu ngạo đó sẽ làm mất lòng tin cậy của dân, sẽ hại đến oai tín của Chính phủ".
Bác cho rằng: "Những kẻ tham ô, lãng phí là quan liêu thì phá hoạt tinh thần, phí phạm sức lực, tiêu hao của cải của Chính phủ và của nhân dân. Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám". Mặt khác, Bác ân cần nhắc dạy chúng ta rằng: "Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ "cộng sản" mà ta được họ yêu mến".
Đối với những cán bộ sai lầm, trong sách "Sửa đổi lối làm việc", Bác nêu "một không sợ", "hai sợ".
- Không sợ có sai lầm, khuyết điểm.
- Sợ thứ nhất "không chịu cố gắng sửa chữa sai lầm và khuyết điểm...".
- Sợ thứ hai "và càng sợ những người lãnh đạo không biết tìm cách đúng để giúp cán bộ sửa chữa sai lầm và khuyết điểm". "Trừ những người cố ý phá hoại, ngoài ra không ai cố ý sai lầm, sai lầm là vì không hiểu, không biết. Vì vậy, đối với cán bộ bị sai lầm, ta quyết không nên nhận rằng họ muốn như thế... Sự sửa đổi khuyết điểm một phần cố nhiên là trách nhiệm của cán bộ đó. Nhưng một phần cũng là trách nhiệm của người lãnh đạo.
Sửa chữa sai lầm, cố nhiên dùng cách giải thích thuyết phục, cảm hoá, dạy bảo. Song không phải tuyệt nhiên không dùng xử phạt. Lầm lỗi có việc to, việc nhỏ. Nếu nhất luật không xử phạt thì sẽ mất cả kỷ luật, thì sẽ mở đường cho bọn cố ý phá hoại. Vì vậy, hoàn toàn không dùng xử phạt là không đúng".
Trong công tác xét xử. Bác nhắc nhở "Không vì công mà quên lỗi - không vì lỗi mà quên công", thuyết phục giáo dục là hàng đầu, nhưng phải có kỷ luật rất nghiêm. Phải phân tích rõ ràng cái cớ sai lầm, phải xét kỹ lưỡng việc nặng hay nhẹ, phải dùng xử phạt cho đúng". "Người đời ai cũng có khuyết điểm. Có làm việc thì có sai lầm". "Đảng ta không phải trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra. Vì vậy, tuy nói chung, thì đảng viên phần nhiều là những phần tử tốt, nhưng vẫn có một số chưa bỏ hết những thói xấu tự tư, tự lợi, kiêu ngạo, xa hoa, v.v.. Những thói xấu đó đã có từ lâu, nhất là trong 80 năm lô lệ. Những thói xấu đó, họ mang từ xã hội vào Đảng.
Cũng như những người hàng ngày lội bùn, mà trên mình họ có hơi bùn, có vết bùn. Như thế thì có gì là kỳ quái?"
"Cũng như một nhà có rể khờ, dâu dại, không thể cấm họ gặp gỡ bà con. Đảng ta dù muốn giấu những người và những việc không tốt kia, cũng không thể giấu. Quần chúng luôn luôn liên lạc với Đảng ta... Họ chẳng những trông thấy những người tốt việc tốt, mà họ cũng trông thấy nhóm người xấu, việc xấu trong Đảng. Họ sẽ ngơ ngác mà hỏi "Đảng này là Đảng tốt, đảng viên đều là người tốt, vì sao lại có những người vu vơ, những việc mờ tối như thế nhỉ?".
Bốn hai năm đã qua, ngày nay, đọc lại những lời dạy bảo chí tình, chí nghĩa, chi ân ấy của Bác mà chúng ta giật mình thấy nhức nhối trong tim.
NHÀ PHẢI CÓ CỘT MỚI VỮNG TRÃI
Những ngày làm công tác ở cơ sở, tôi vinh dự được "Đồng chí già" nhiều lúc trực tiếp dạy bảo. Người luôn luôn có mối liên hệ ràng buộc chặt chẽ với quần chúng, vì vậy quần chúng rất gần gũi Người, không hề cảm thấy có gì ngăn cách. Công tác huấn luyện quần chúng được Người tiến hành bất kể lúc nào trong câu chuyện, trong việc làm thường ngày, có khi là những lời ngắn gọn như một châm ngôn. Những bài học ấy thường rất cụ thể và có hình ảnh sinh động, đi vào trí nhớ của chúng tôi rất nhanh. Thú thực mà nói, có những vấn đề về Đảng, về giai cấp, về dân tộc, về kẻ thù... mà chúng tôi đã được một số đồng chí cán bộ khác giảng giải cho nghe, thật khó hiểu và rắc rối không còn biết lần đâu ra mối. Cái đó không phải là lỗi của những người truyền đạt, mà chủ yếu là vì chúng tôi đã quá quen với một cách nói cụ thể và có hình ảnh, vốn là lối suy nghĩ đặc biệt của người miền núi. "Đồng chí già" nắm rất chắc đặc điểm ấy trong cách nhận thức của chúng tôi. Người biến những suy nghĩ đậm đà màu sắc triết học, những khái niệm trừu tượng đầy tính khái quát, những chủ trương, đường lối và phương pháp cách mạng ngắn gọn, súc tích, thành cách nói mộc mạc, dễ hiểu cho quần chúng.
Có lần bàn về các đoàn thể cách mạng trong nước, Người nói:
- Nhà thì phải có cột mới vững chãi. Các đoàn thể cách mạng cũng thế, phải có cái cột của nó mới đứng vững được, nghĩa là phải có Đảng lãnh đạo.