Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển sáng tạo những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin, những bài học kinh nghiệm của Cách mạng tháng Mười Nga vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng vượt qua nhiều khó khăn, liên tục giành được những thắng lợi to lớn.
Nguyễn Ái Quốc khẳng định, muốn giải phóng dân tộc thành công: “Cần có sự lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công”.
Vai trò lãnh đạo của Đảng đã được Mác, Ăng ghen, Lê-nin khẳng định và trong Cách mạng Tháng Mười Nga, Lênin đã vận dụng rất thành công. Nhận thức về sứ mệnh của Đảng, ngay từ tác phẩm “Đường cách mệnh” (1927), Người đã chỉ rõ: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”.
Nguyễn Ái Quốc cho rằng để xây dựng Đảng Cộng sản, trước hết phải giải quyết tốt vấn đề nhận thức tư tưởng chính trị và phương pháp tổ chức cho những người yêu nước; phải giác ngộ chủ nghĩa yêu nước truyền thống, chủ nghĩa dân tộc Việt Nam theo lập trường cách mạng vô sản… Trong quá trình huấn luyện cán bộ cho cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc không chỉ truyền bá lý luận Mác-Lênin vào công nhân mà còn truyền bá vào các tầng lớp trí thức yêu nước. Ngày 23-12-1929, Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm tới Trung Quốc, triệu tập đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng họp tại Hồng Công (ngày 06-01-1930) để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc bằng uy tín và kinh nghiệm của mình, đưa đến thành công của Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam đầu năm 30 của thế kỷ XX. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối của cách mạng Việt Nam và là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam.
Tiếp thu tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin và bài học kinh nghiệm từ Cách mạng tháng Mười Nga: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cần vận động tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang bị mất nước. Người luôn khẳng định đoàn kết là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam mà nhờ đó mới tạo nên nhiều chiến công lẫy lừng của dân tộc. Từ thực tiễn lịch sử đấu tranh cách mạng, Người chủ trương và dành nhiều tâm lực để xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, để huy động sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân. Nguyễn Ái Quốc có đóng góp quan trọng vào việc quyết định và thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) thay cho “Mặt trận dân tộc thống nhất Phản đế Đông Dương”, nhằm đoàn kết, phát huy sức mạnh của các tầng lớp nhân dân, đánh đuổi Pháp, Nhật.
Từ sự chuẩn bị mọi mặt cho cách mạng về Đảng, về lực lượng, về cách thức, phương pháp tiến hành cách mạng, đến trình độ nhận thức nhạy bén, đánh giá xu thế chuyển biến của cục diện chính trị quốc tế, khu vực trong thời đại mới; sự phát triển của các phong trào cách mạng, phong trào hòa bình, dân chủ trên thế giới; thế và lực của cách mạng nước ta và đối phương, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Ban Chấp hành Trung ương Đảng có những nhận định ngay từ tháng 5-1941: “ Nếu cuộc đế quốc chiến tranh lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”.
Sau khi biết tin thắng trận của Hồng quân Liên Xô và quân Đồng Minh trên chiến trường Châu Âu đánh bại phát xít Đức, tiếp đó quân Đồng minh tiến hành phản công trên Mặt trận Châu Á - Thái Bình Dương và trong nước, phong trào đấu tranh của nhân dân diễn ra dồn dập, lực lượng chính trị, vũ trang phát triển nhanh chóng, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ |Chí Minh cho rằng cần chuẩn bị hết sức gấp rút để phát động toàn dân nổi dậy giành chính quyền đúng thời cơ, tiến hành tổng khởi nghĩa. Trong những ngày đầu tháng 8-1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh chỉ thị cho nhiều cán bộ cấp cao ở Tân Trào: “Chúng ta cần tranh thủ từng giây, từng phút, tình hình sẽ chuyển biến nhanh chóng. Không thể để lỡ cơ hội”.
Trước tình hình như vậy, mặc dù đang ốm nặng, Hồ Chí Minh vẫn quyết định: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”. Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, trên cơ sở chọn lọc những yếu tố tích cực của mô hình tổ chức nhà nước Xôviết và các nhà nước dân chủ khác, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Một quan điểm có ý nghĩa phương pháp luận mang tính chỉ đạo lâu dài đối với Đảng và nhân dân ta được Hồ Chí Minh chỉ ra là: “Đi theo con đường do Lênin vĩ đại đã vạch ra, con đường của Cách mạng Tháng Mười, nhân dân Việt Nam đã giành được thắng lợi rất to lớn. Chính vì vậy mà mối tình gắn bó và lòng biết ơn của nhân dân Việt Nam đối với Cách mạng Tháng Mười vẻ vang, đối với Lê-nin vĩ đại và đối với nhân dân Liên Xô là vô cùng sâu sắc”.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng sáng tạo mang tầm vóc thời đại của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, tiếp thụ và truyền bá những mục tiêu, lý tưởng cao đẹp của cách mạng tháng Mười Nga vào thực tiễn Việt Nam. Qua hơn 30 năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng khoa học, sáng tạo những bài học lịch sử, những kinh nghiệm cách mạng mang tính phổ biến, sâu sắc của cách mạng tháng Mười Nga; vẫn kiên định lấy chủ nghĩa Mác- Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động; lãnh đạo đất nước giành được nhiều thắng lợi vĩ đại, xây dựng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, hướng tới những lý tưởng cao đẹp của cách mạng tháng Mười Nga.