Sau khi rời ngôi nhà 48 Hàng Ngang, Bác ở số 8 Donchamp (phố Lê Thái Tổ hiện nay). Ngôi nhà này khá rộng. Tầng dưới có một phòng tiếp khách, hai phòng nữa dùng làm phòng ăn. Trên gác có bốn phòng ngủ và một phòng làm việc của Bác. Các đồng chí lãnh đạo đều ở phân tán. Võ Nguyên Giáp không có nhà quen để ở, tôi tìm cho anh được một ngôi nhà ở phố Virlet (Tô Hiến Thành). Sao Đó, khi thì ở nhà tôi mới thuê ở góc đường Gambetta - Rialand (Trần Hưng Đạo - Phan Chu Trinh), khi thì ở nhà anh Lang Bách ở phố Hàng Bạc. Đi làm mỗi người chỉ có một cái xe đạp.
Những nhân viên cũ của Phủ Thống sứ tôi đều giữ lại làm việc cho ta. Anh Hảo trước lái xe cho Thống sứ Pháp thì nay lái xe cho Bác. Nếu theo quan điểm nhìn người sau này, theo cách của thời kỳ cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, thì như thê thật là mất cảnh giác. Nhưng với những nhân viên cũ ấy, chẳng có chuyện gì xảy ra. Nhiều người trong số đó sau này đã trở thành cán bộ cách mạng nhiệt tình, kiên định. Khi Bác rời Hà Nội lên Chiến khu lãnh đạo kháng chiến anh Hảo theo, làm vườn, nấu bếp cho Bác.
Bộ phận lãnh đạo cách mạng vừa từ Tân Trào về Hà Nội được ít ngày thì tướng Tiêu Văn của Trung Hoa Dân quốc sang. Lãnh sự Trung Hoa ở Cửa Đông báo tin ông tướng của họ tới. Đám các anh Bồ Xuân Luât cũng biết tin này, vội báo lại. Bác bảo tôi:
- Chú sắm vai tham nghị, đi đón Tiêu Văn cho tôi
Tôi băn khoăn:
- Thưa Cụ, tiếng Tàu tôi mít đặc.
- Thì chú chọn người biết tiếng đi cùng, nhưng phải chọn cẩn thận.
Tôi tìm Nguyễn Đức Thụy. Thụy nói giỏi tiếng Trung Quốc, có biệt danh là Thụy Tàu. Chúng tôi cùng đóng vai tham nghị thay mặt Cụ Hồ đi đón Tiêu Văn. Chúng tôi đi hai xe, một xe quân sự nhỏ, một xe hòm kính, ngược đường số 1 lên tới Từ Sơn thì gặp đoàn xe của Tiêu Văn từ Lạng Sơn đi xuôi. Viên tướng Tàu này là một người bé nhỏ, dáng nho nhã, đeo kính trắng trạc 50 tuổi, lịch sự nhưng lạnh lùng. Tiêu Văn là phó tướng của Trương Phát Khuê, trong chiến tranh chống Nhật, hành dinh của họ đóng ở Quế Lâm tỉnh Quảng Tây. Ông ta có trách nhiệm sang Việt Nam trước để lo cho quân Tưởng vào Việt Nam, giải giáp quân đội Nhật ở đây. Cuộc đón tiếp đoàn Tiêu Văn diễn ra ngay trên mặt đường với tất cả sự long trọng mà viên tham nghị cùng mấy người tùy tùng có thể làm được. Cái chức tham nghị mà Bác phong cho tôi và Thụy Tàu là một cái chức mơ hồ, nghe cũng kêu mà lại chẳng rõ, cả lúc ấy và cả sau này tôi vẫn không hiểu nó là cái gì. Năm ấy nước to, có một đoạn đê bị vỡ làm đường vỡ theo, phải bắc cầu tre. Tiêu Văn đành run rẩy nắm chặt tay vịn để bước qua cái cầu khỉ đó. Tới Hà Nội, đoàn của Tiêu Văn chẳng buồn chia tay với chúng tôi, rẽ thẳng về Lãnh sự quán. Tôi báo cáo về chuyến đi với Bác, Bác bảo:
- Tốt, mai chú và tôi sẽ tới chào Tiêu Văn.
- Ta mời Tiêu Văn đến khoản đãi và nghênh tiếp có hơn không?
Bác mỉm cười:
- Ta phải đến chào để tỏ lòng hiếu khách.
Nụ cười của Bác cho tôi hiểu rằng cái thế của ta bây giờ là thế, ta phải đến chào viên tướng Tàu, cái chính là điều đó có lợi cho cách mạng, không nên giữ kẽ.
Sáng hôm sau, Bác và tôi đến Lãnh sự quán Trung Hoa Dân quốc. Tôi tính đem theo Thụy Tàu, nhưng Bác gạt đi "không cần phiên dịch, chỉ tôi với chú thôi".
Rất nhiều nhà báo châu Á và phương Tây đã ca ngợi tài ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhưng tôi nghĩ họ mới chỉ nhìn thấy cách ứng xử của Bác ở bề ngoài. Thực chất của cái gọi là tài ngoại giao của Bác nằm ở nơi sâu kín hơn nhiều. Nó nằm trong tấm lòng đôn hậu của Bác. Người nào gặp Bác lập tức cũng bị cuốn hút vào bầu không khí thân tình do Bác tạo ra, có khi chỉ bởi một cái nháy mắt, một nụ cười, một câu nói đùa...
Một hôm có mấy người Pháp bị bắn chết ở quãng giữa ngôi nhà lớn của Ngân hàng Đông Dương với Bắc Bộ phủ. Không rõ ai bắn? Vì sao bắn? Tự vệ thành của ta làm ẩu hay âm mưu khiêu khích của Quốc dân Đảng? Chu Phúc Thành nghi ta gây vụ này lên mặt "đồng minh trông nom trật tự” gửi giấy mời Bác tới. Đó là hành dộng rất láo xược, nhưng tôi đã biết đối sách "ngậm bồ hòn làm ngọt" của Bác rồi, tôi biết Bác sẽ đi. Bác gọi tôi đi cùng, xe do anh Hảo lái. Đến dinh viên tướng Tàu họ Chu, tôi toan theo Bác cùng vào thì bị bọn sĩ quan Tưởng giằng co đẩy trở lại. Bác ra hiệu cho tôi cứ yên tâm rồi một mình bước vào. Tôi đành ngồi lại ở hành lang. Lát sau tôi nghe từ trong nhà vẳng ra tiếng Bác nói rất to xen lẫn những giọng nói tiếng Tàu khác cũng rất to, rõ ràng là một cuộc cãi vã. Tôi ngồi nhấp nhổm không yên, chỉ lo bọn Tàu làm chuyện ẩu với Bác. Nhìn ra thì gặp cặp mắt lo lắng của anh Hảo ngồi trong xe, trước tay lái.
Phải nửa giờ đồng hồ sau Bác mới trở ra. Tôi bật dậy, đi theo Bác. Tôi nhìn, thấy nét mặt Bác bình thường. Bác ngoắc tôi: "Thôi, anh em mình về". Tôi định đi trước mở cửa xe cho Bác thì Bác bảo: "Ta đi bộ". Tôi gạc nhiên quá: "Thế còn xe?". "Chúng nó giữ lại...". Miêng nói chân bước, Bác xăm xăm đi ra cổng, tôi lắng lặng theo gót Bác.
Từ hành dinh của Chu Phúc Thành, chúng tôi đi bộ theo đường Bờ Sông rồi quặt theo hông Nhà hát Lớn qua đường Lê Thánh Tôn, men theo hông khách sạn Métropole về Bắc Bộ phủ. Trên đường đi, Bác kể cho tôi nghe chuyện xảy ra trong hành dinh của Chu. Bác giữ thái độ ôn hòa, nhưng Chu lên mặt, nói hiện nay trật tự tại thành phố Hà Nội là do nó trông nom, "các người có hành động gì cũng phải được tôi cho phép", vì thế xảy ra to tiếng, mới lâu. Im lặng một lát, Bác nói tiếp: "Nó định giữ tôi lại". Tôi sôi máu lên, nhìn Bác mà nước mắt muôn ứa ra.
Tôi hiểu tâm trạng Bác. Lần đầu tiên tôi thấy Bác dằn tiếng như vậy, và cũng là lần cuối cùng. Chu Phúc Thành đã đụng tới cái thiêng liêng nhất của dân tộc ta. Tôi nhớ hôm đón Lư Hán, Bác đã chỉ thị cho tổ chức một cuộc míttinh rất lớn, nhưng trong cuộc míttinh này Bác đã cho căng khẩu hiệu "Indépendance or death" (Độc lập hay là chết!) do chính Bác viết để các nơi theo đó mà viết. Độc lập hay là chết! Đó là mục tiêu của cuộc chiến đấu. Vì nền độc lập của đất nước mà Bác phải hạ mình trước một tên tướng mã phu. Hồi đó, tôi cũng như nhiều đồng chí khác, chưa biết những nỗi niềm tâm sự Bác gửi gắm trong tập Ngục trung nhật ký. Trong trách nhiệm của mình, tôi cố gắng lo cho Bác từ chiếc khăn mặt, cãi mũ cát tới tấm áo lót... mong sao cho Bác không phải bận tâm điều gì, để Bác có thể tập trung tư tưởng nghĩ việc lớn cho dân cho nước. Chúng tôi chăm sóc bữa cơm của Bác, canh chừng giấc ngủ của Bá để Bác được mạnh khỏe và thảnh thơi trong dạ... Vậy bọn Tàu lại dám hỗn hào, xúc phạm đến Bác! Chắc hẳn, nhìn nét mặt tôi, Bác cũng đoán được tôi đang nghĩ gì. Để an ủi tôi, Bác hỏi:
- Chú biết chuyện Việt vương Câu Tiễn chứ?
Tôi đáp khẽ:
Bác cười hiền lành, cái nhìn vừa hóm lại vừa buồn, loáng một ánh xa vắng.
Ngày 15-10-1945 bắt đầu cuộc đàm phán dai dẳn giữa hai bên Việt - Pháp, với hai người đối thoại chính là Hồ Chí Minh và Xanhtơni.
Trước đó vài ngày, Bác hỏi tôi:
- Này, chú bố trí cho tôi chỗ họp với Xanhtdni đi. Một chỗ không cần sang trọng lắm, nhưng cũng phải chững chạc. Sẽ họp dài đấy.
Tôi chọn Cerclo de 1'Ưnion. Nơi này trước đây đầm thường lui tới uống rượu và khiêu vũ, bây giờ ta chiếm. Sau khi quét dọn lại, tu sửa chút ít, Bác đến xem, nói: Được rồi".
Trong suốt cuộc đàm phán, người ngồi bên Bác là anh Hoàng Minh Giám. Đôi lần, Bác bảo tôi: "Chú báo cho Nguyễn Tường Tam (hoặc Vũ Hồng Khanh) đi cùng với tôi hôm nay gặp Xanhtơni.
Nguyễn Tường Tam hoặc Vũ Hồng Khanh, vốn lo sợ việc quân Pháp trở lại thay quân Tưởng, đưa ra những đòi hỏi "quá khích", cái đó lại càng làm nổi bật những yêu cầu "ôn hòa" của Bác. Cuộc đàm phán diễn ra rất căng thẳng. Xanhtơni, như sau đó ông ta được chính thức cử làm ủy viên Cộng hòa Pháp ở Bắc Việt Nam tuyên bố quyết "không từ bỏ bất cứ cơ hội nào để lập lại quyền lợi chính đáng của nước Pháp trên mảnh đất mênh mông đặt dưới quyền tôi", khăng khăng giữ vững lập trường thực dân của mình. Còn Bác thì cũng "tranh luận từng câu, từng chữ, nhưng rất kiên quyết trong tinh thần bảo vệ nguyện vọng thiêng liêng của nhân dân Việt Nam", như Xanhtơni kể lại trong cuốn đối mặt với ông Hồ Chí Minh. Trong các cuộc hội đàm, Bác hút thuốc liên tục, có khi hút cả loại Gauloises nặng của Pháp để trên bàn họp. Pinhông cũng hút liên miên, còn Xanhtơni thì không lúc nào ngừng phì phèo cái tẩu. Khói quẩn quanh mù mịt trong phòng.
Những hôm họp căng thẳng quá, Bác hút nhiều, buổi tối về ho suốt. Tôi khuyên Bác bớt hút thì Bác nói:
- Mình phải hút nhiều để họ tưởng mình suy nghĩ lung lắm. Kỳ thực, quanh quẩn vẫn là lập trường ban đầu, họ cũng vậy mà mình cũng vậy, nhưng mình chủ động, còn họ bị động.
Nhiều lần, cuộc đàm phán bị ngưng lại. Lúc ấy, bên này hoặc bên kia lại phải nhờ tới Caput, đảng viên Đảng Xã hội Pháp làm trung gian nối lại. Lúc ấy tôi mới hiểu tại sao Bác đã bố trí Hoàng Minh Giám đi cùng Bác. Anh Giám cũng là đảng viên Đảng Xã hội Pháp (SIEO) như Caput. Phía Pháp không thể nào nói Việt Minh toàn cộng sản được.
Sự kéo dài cuộc đàm phán là cần thiết cho việc củng cố lực lượng ta. Hiện tại, yếu tố ủng hộ mạnh mẽ nhất cho thắng lợi của cách mạng là thời gian. Đằng sau bàn hôi nghị là những hoạt động sôi nổi và kín đáo cho chiến tranh mà Bác và Trung ương Đảng ngay từ lúc ấy đã nhận định là "khó tránh khỏi". Tuy nhiên Bác vẫn mong muốn điều đó không xảy ra, hy vọng phía Pháp, với Xanhtơni là đại diện, sẽ hiểu rằng một cuộc chiến tranh sẽ chẳng mang lại lợi gì cho nước Pháp Trong thời gian đàm phán, Bác và Xanhtơni còn có những buổi gặp riêng. Sau những buổi gặp ấy, Bác nhận định về ông ta: "Một người học rộng, biết nhiều đấy, vì thế ông ta cũng thấy được không thể chiến thắng ta bằng quân sự, nhưng ông Xanhtơni là hai con người, một Xanhtơni biết điều, một Xanhtơni thực dân".
Ở Trùng Khánh vẫn diễn ra những cuộc thăm dò ý kiến để bước vào mặc cả giữa Pháp và chính quyền Tưởng. Người Pháp ráo riết mở lối trở lại Việt Nam.
- Chú theo dõi kỹ cho tôi việc này - Bác chỉ thị.
Hồi ấy chúng ta chưa có ngành tình báo, việc ai cần người ấy làm. Tuy vậy, rồi tôi cũng cố gắng thu thập được thông tin đủ loại, từ tin qua các đài phát thanh cho tới tin lấy được từ những bàn đèn thuốc phiện của tướng tả Tưởng (thứ tin này Lê Giản cấp cho tôi khá nhiều, đủ mọi chuyện khác nữa, tin vỉa hè do bọn Việt Nam Quốc dân Đảng tung ra...), để đặt lên bàn làm việc của Bác. Việc sàng lọc, xử lý thông tin, như ngày nay chúng ta quen gọi, diễn ra trong một bộ não đầy sáng suốt của Bác.
Nguồn: Bác Hồ sống mãi với chúng ta,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.2.