|
II. Phong trào công nhân công đoàn Việt Nam trong giai đoạn 1930-1945
1. Thời kỳ 1930 - 1936
Vừa ra đời, bất chấp sự kiểm soát gắt gao của thực dân Pháp, Công hội đỏ vẫn tích cực tuyên truyền, vận động, tổ chức CNLĐ liên tục đấu tranh chống áp bức bóc lột, lãnh đạo công nhân đoàn kết cùng nhân dân lao động bước vào cuộc đấu tranh cách mạng sôi nổi, liên tục để giành độc lập cho dân tộc. Mở đầu thời kỳ đấu tranh oanh liệt đó là cao trào cách mạng 1930 -1931 với trận ra quân đầu tiên của công nhân nhà máy xe lửa Trường Thi, nhà máy Cưa, nhà máy Diêm Bến Thuỷ (thành phố Vinh - Nghệ An) đúng vào ngày 1/5/1930, tiến tới thành lập Xô viết công nông ở hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh. Trong thời gian này, Công hội đỏ đã cử hơn 300 cán bộ về nông thôn phối hợp tranh đấu, xây dựng khối liên minh công nông trong chiến đấu.
Trong năm 1930, đã có 98 cuộc đấu tranh với trên 6 vạn lượt thợ thuyền tham gia. ở Nhà máy Sợi Nam Định số hội viên đã tăng từ 400 lên 1.000 người. ở Vinh - Bến Thuỷ đã có 15 tổ Công hội đỏ với 125 hội viên. ở khu vực Sài Gòn - Chợ Lớn, đã có 12 cơ sở Công hội đỏ với 700 hội viên . Phong trào đấu tranh của công nhân và sự phát triển của tổ chức Công Hội đỏ Việt Nam, đã được Đại hội V Quốc tế Công hội đỏ tại Matxcơva ngày 15/8/1930 biểu dương, khích lệ.
Tháng 10/1930 Đảng cộng sản Đông Dương triệu tập Hội nghị Trung ương lần thứ nhất, thông qua Luận cương chính trị của Đảng. Ngày 20/1/1931, Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương mở hội nghị công vận Đông Dương tại Sài Gòn do đồng chí Trần Phú chủ trì. Hội nghị xác định công tác vận động công nhân là nhiệm vụ trung tâm hàng đầu của toàn Đảng đề ra quy tắc tổ chức Công hội theo ngành sản nghiệp, từng phân bộ tỉnh, Liên hiệp Công hội các tỉnh, từng xứ đến Tổng Công hội Đông Dương. Hội nghị bầu Ban Công vận Trung ương do đồng chí Trần Phú làm trưởng ban.
Từ đầu năm 1931, thực dân Pháp tăng cường đàn áp phong trào đấu tranh của công nhân Việt Nam. Cuộc khủng bố trắng của thực dân Pháp đã bắt giam, bắn chết hàng vạn chiến sĩ cộng sản và quần chúng cách mạng tham gia phong trào 1930-1931 và Xô Viết Nghệ Tĩnh. Đến cuối năm 1931, hầu hết số cán bộ Đảng và Công hội đỏ đều bị địch bắt, khiến cho mối liên lạc giữa Đảng và quần chúng, giữa Công hội đỏ và phong trào công nhân tưởng như bị đứt đoạn. Thêm vào đó, nạn khủng hoảng kinh tế vẫn trầm trọng và kéo dài làm cho 8 vạn người thất nghiệp, tiền lương của những công nhân còn có việc làm không ngừng bị bớt xén. Chủ tư bản dùng mọi mánh khoé để bóc lột công nhân.
Nhờ sự nỗ lực, kiên cường của Đảng và nhiệt tình cách mạng của giai cấp công nhân, từ năm 1932 phong trào cách mạng trong cả nước đã bắt đầu được phục hồi. Năm 1932, cơ quan thanh tra lao động Pháp đã phải giải quyết 230 vụ đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm, chống khủng bố của công nhân. Năm 1933 có 244 vụ. Riêng ở Bắc Kì, từ năm 1931 đến năm 1935 có 551 vụ. Các cuộc đấu tranh đã thu hút công nhân của nhiều ngành tham gia, trong đó đáng chú ý là các cuộc đấu tranh của công nhân đồn điền trồng cây công nghiệp. Từ tháng 6/1932 đến tháng Giêng năm 1933 có 5 cuộc đấu tranh của công nhân đồn điền thuộc các tỉnh Biên Hoà, Hà Tiên, Pleiku, Gia Định, Quảng Nam... Từ giữa năm 1934, phong trào công nhân đã khôi phục trở lại, mở đầu bằng cao trào bãi công của công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn. Hội nghị Trung ương tháng 6 năm 1934 của Đảng và Đại hội Đảng lần thứ nhất (tháng 3 năm 1935) đã đề ra nhiệm vụ của Công hội đỏ là phát triển và củng cố các Công hội, chủ trương đưa cán bộ công hội xâm nhập vào nhà máy, sản nghiệp...
2. Thời kỳ 1936 - 1939
Từ năm 1936 đến năm 1939 phong trào công nhân và công đoàn Việt Nam có những thay đổi lớn. Năm 1935, phong trào cách mạng thế giới phải đối đầu với chủ nghĩa phát xít, hình thức chuyên chính cực đoan nhất của chủ nghĩa đế quốc và nguy cơ chiến tranh thế giới đã đến gần. Tình hình đó đòi hỏi phải có sự thay đổi chỉ đạo chiến lược của Quốc tế Cộng sản đối với phong trào cộng sản và công nhân thế giới. ở Việt Nam giai cấp công nhân đã lập ra các tổ chức ái hữu (1936-1937) chủ yếu theo nghề nghiệp, làm bước trung gian tiến tới đòi tự do nghiệp đoàn.
Tổ chức Công hội đỏ đổi tên thành Hội ái hữu, chuyển sang thời kì hoạt động bán công khai. Mục tiêu của phong trào công nhân thời kì này là đòi tự do nghiệp đoàn, đòi thực hiện dân sinh dân chủ, nhằm tập hợp quần chúng rộng rãi, Hội ái hữu chủ trương thu nhận mọi công nhân lao động miễn là họ chấp nhận Điều lệ hoạt động nghiệp đoàn. Nhiều hình thức tổ chức có tính linh hoạt như: Hội ái hữu, Hội tương tế, Hội nghề nghiệp... được thành lập.
Nhờ tổ chức linh hoạt, thích hợp, công khai và bán công khai, phong trào công nhân phát triển mạnh. Từ năm 1936 đến năm 1939, có hàng vạn cuộc đấu tranh của công nhân buộc thực dân Pháp phải chấp nhận một số yêu cầu: tăng lương, giảm giờ làm, tự do hoạt động nghiệp đoàn, tự do hội họp, chống chủ sa thải và đánh đập công nhân. Đến năm 1938, cả nước có 12 vạn đoàn viên nghiệp đoàn, chủ yếu ở Bắc kì và Nam kì. Một số nơi có phong trào công nhân phát triển mạnh như: Hòn Gai, Nam Định, Hà Nội, Vinh - Bến Thuỷ, Cao su Phú Riềng...
Tóm lại, tổ chức Hội ái hữu thời kì 1936-1939, đã trực tiếp dẫn dắt phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam, mở rộng tính quần chúng của tổ chức công đoàn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, tổ chức Hội ái hữu đã tiến hành một cuộc vận động sôi nổi trong phong trào công nhân, kết hợp đấu tranh công khai và bán công khai, mở rộng đấu tranh ở nghị trường, buộc thực dân Pháp phải thi hành một số cải cách xã hội chưa từng có trong xã hội Việt Nam . Trong thời kì này, chủ nghĩa Mác-Lênin được công khai truyền bá trong công nhân, nhân dân lao động, trực tiếp giáo dục chính trị cho hàng triệu quần chúng, tạo nên một cao trào cách mạng trong cách mạng Việt Nam.
|