Chúng tôi ngồi trên một chiếc giường con. Bác ngồi ngoài, chân bỏ thõng xuống đất. Anh Kiên ngồi cạnh cửa sổ. Tôi ngồi đối diện với Bác.
Anh Kiên báo cáo với Bác về tình hình Vân Nam, về Bộ Hải ngoại do anh làm bí thư, về tờ báo Đ.T Anh nói rõ ràng, mạch lạc như đã được chuẩn bị từ trước. Bác vừa hút thuốc - loại thuốc lào Trung Quốc - vừa nghe anh Kiên nói với một vẻ chăm chú đặc biệt. Anh Kiên nói xong, tôi kể tiếp những ngày đầu tiên tôi được anh giới thiệu về đây cùng với hai đồng chí khác xây dựng chi bộ đầu tiên ở Vân Nam. Từ đốm lửa nhỏ này phong trào cách mạng ngày càng lan rộng. Chúng tôi tổ chức ra nhiều hội quần chúng ở Côn Minh và dọc con đường xe lửa Côn Minh - Hồ Khẩu. Sau khi toàn dân Trung Quốc thống nhất chống Nhật cứu nước, các hội quần chúng trên kia không phù hợp nữa. Để hưởng ứng và ủng hộ nhân dân Trung Quốc kháng Nhật, ta cần có hội gì thu hút đươc quảng đại quần chúng Việt kiều mà nhà đương cục Vân Nam (Trung Quốc) phải chấp nhận, lãnh sự Pháp phải đồng tình, không làm rầy Việt kiều ta được. Chúng tôi quyết định vận động thành lập “Việt Nam hưởng ứng Trung Quốc kháng địch hậu viện Hội”. Hội hoạt động được một thời gian, ảnh hưởng ngày càng lan rộng. Cuối tháng 10-1937, đế quốc Nhật thúc ép công ty xe lửa Pháp không được vận chuyển vũ khí đạn dược cho Trung Quốc từ Hải Phòng đến Côn Minh nữa. Đương cục Trung Quốc thấy Hội ta có ảnh hưởng rộng không những trong Việt kiều mà cả trong những người công nhân Trung Quốc làm trên đường xe lửa nên đề nghị với ta vận động một cuộc đình công của công nhân dọc đường xe lửa. Cuộc vận động đang tiến hành thuận lợi thì bọn Pháp nhượng bộ đồng ý chở vũ khí cho Trung Quốc. Cuộc đình công chưa xảy ra, nhưng ảnh hưởng chính trị của Hội được lan rộng trong quảng đại quần chúng.
Có lần nhà đương cục Vân Nam gọi chúng tôi lên bảo thẳng với chúng tôi là các anh làm cộng sản, rồi đưa tài liệu Hội nghị Ma Cao cho chúng tôi xem. Chúng tôi biết đây là một bọn ngu ngốc, chẳng hiểu gì về cộng sản cả. Chúng tôi không nhận và hỏi lại:
- Tài liệu này các ông lấy ở đâu, lấy của ai?
Chúng ngơ ngác chưa trả lời được thì chúng tôi dồn luôn:
- Chúng tôi làm cách mạng, cách mạng của chúng tôi là đánh Pháp chứ không phải là cộng sản. Cho nên ai đưa tài liệu này cho các ông thì người đó là cộng sản
Bọn chúng đuối lý, buộc phải để chúng tôi về
Nghe xong Bác nói: Các đồng chí có cố gắng trong việc xây dựng phong trào, tổ chức các hội quần chúng... luôn luôn dựa vào chi bộ để bàn bạc nhiệm vụ công tác.
Từ đó Bác trực tiếp chỉ đạo mọi hoạt động của chúng tôi. Mỗi lời nói, mỗi việc làm của Bác đều Xuất phát từ tình hình thực tế, đều nhằm một mục đích duy nhất là làm sao cho cách mạng phát triển. Bác tham gia viết bài đều đặn cho các báo Đ.T.. Bài nào của Bác cũng hết sức ngắn gọn, cô đúc, nhưng rất dễ hiểu, dễ nhớ. Bác thường làm thơ. Và thơ Bác cũng như văn Bác rất ít chữ, ít lời, mộc mạc, giản dị. Có một lần Bác cho in một bài thơ đề là Vợ gởi chồng. Bác nói đùa với anh em đó là thơ của vợ anh Trịnh Đông Hải từ trong nước gửi ra:
Vợ gởi chồng
Ba bốn năm trời luống nhớ thương,
Nhớ chồng lưu lại tại tha lương.
Tóc thề đã chấm ngang vai thiếp
Lụy nhớ e chưa ráo mắt chàng.
Thù nước thù nhà chàng gắng trả
Việc nhà việc nước thiếp xin đi
Bao giờ đuổi sạch quân thù địch
Ta sẽ sum vầy ở cố hương.
Bài thơ gợi nhớ, gợi thương nhưng không hề bi lụy. Ngược lại nó chứa đựng một niềm tin tưởng, lạc quan cách mạng, thúc giục những người con trai đi làm cách mạng cố gắng “đuổi sạch quân thù địch” để chóng về lại nhà, sum vầy, đoàn tụ...
Tuy là Bác nói đùa nhưng bài thơ có một tác động mạnh mẽ đối với chúng tôi.
Từ ngày Bác về, quần chúng càng ham mê đọc báo, càng đòi hỏi báo nhiều hơn.
Bác thường nhắc nhở chúng tôi là trình độ văn hóa của quần chúng còn thấp, phải viết như thế nào để cho quần chúng đọc được, hiểu được mà lại phù hợp với khuôn khổ tờ báo nhỏ của chúng ta. Phải viết thật ngắn, càng ngắn càng tốt, nhưng phải sáng sủa, rõ ràng, dễ nhớ, dễ hiểu, dễ thuộc. Không được nói văn hoa, bóng bảy, tránh diễn đạt lan man, dài dòng. Mỗi bài đều có một trọng tâm chính trị nhất định. Phải tập trung vào trọng tâm ấy mà nói.
Hồi ấy Bác ở một nơi khác. Thường ngày Bác vẫn mang máy chữ đến cơ quan bí mật để làm việc. Trong khi viết, Bác ít nháp mà thường suy nghĩ cho chín rồi đánh máy thẳng ra giấy, bất kỳ đó là một công Văn, tài liệu hay một bài báo, một bản dịch...
Nguồn: Đầu nguồn (Hồi ký về Bác Hồ),
Nxb. Văn học, Hà Nội, 1977.