Ông Năng bảo, khó mà kể hết muôn vàn khó khăn, gian khổ, mất mát, hy sinh trong quá trình thi công đường. Nhưng đối với ông, nhiệm vụ khó khăn nhất và cũng quan trọng nhất vẫn là công tác dân vận. Theo đúng thiết kế, cung đường chiến lược có rất nhiều điểm đi qua khu vực nương rẫy, thậm chí cả nhà mồ của bà con dân bản nên ban đầu đã bị nhiều người phản đối. “Bà con đều là đồng bào dân tộc ít người. Họ có phong tục, tập quá sinh hoạt, làm kinh tế hoàn toàn khác xa so với người dưới xuôi. Đường có nhiều đoạn đi qua ruộng nương bà con trong khi thời điểm bắt đầu triển khai làm đường thì lại trùng đúng vào vụ mùa thu hoạch của họ. Nhưng trên đấy họ không thu hoạch luôn một lúc như dưới xuôi mà lúa ngô họ cứ để ngoài đồng, ăn đến đâu sẽ ra lấy đến đấy. Đợi đến lúc họ thu hoạch xong có khi phải hết cả năm trời”, ông Năng kể.
Trước tình hình đó, Ban chỉ huy công trường đã thành lập một ban dân vận, chia nhỏ ra thành nhiều nhóm, vào từng nhà dân để thuyết phục bà con thu hoạch mùa vụ rồi nhường đất làm đường. Lúc đầu nhiều người không đồng ý, phần vì phong tục tập quán, phần nữa vì nhiều bà con không tin chúng ta có thể làm được con đường chiến lược này. “Họ bảo, người Pháp ở đây cả trăm năm, người Pháp giàu mạnh như thế mà còn không làm được con đường thì chúng ta, với những dụng cụ thô sơ, người lại mỏng sao có thể làm được. Chính vì họ không tin nên khi được nói về con đường, chẳng mấy ai mặn mà”, ông Năng cho biết.
Để thuyết phục bà con, ông Năng và đồng đội lấy chính chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội mà bộ đội ta vừa dành được làm dẫn chứng để thuyết phục bà con. “Chúng tôi bảo, cứ điểm Điện Biên Phủ Pháp xây dựng kiên cố là thế mà Bộ đội Cụ Hồ vẫn đánh thắng, vẫn đuổi chúng khỏi lãnh thổ Việt Nam được thì con đường chiến lược kia có thấm vào đâu. Rồi chúng tôi phân tích, khi con đường hoàn thành, bà con địa phương cũng được hưởng lợi từ nó. Việc đi lại thuận tiện hơn, giao thương mua bán cũng dễ dàng hơn. Nói đến đó thì tất cả mọi người đều ủng hộ”, ông Năng cho hay.