Trong một bài thơ khác: Người chẳng nói chi nhiều, nhà thơ Hồ Thanh Điền đã ghi lại các chặng đường hoạt động của Bác Tôn, từ những ngày đầu rời quê, bắt đầu sự nghiệp đấu tranh, tìm kế sinh nhai bằng đôi tay cần mẫn của người thợ :
Khi ra đi Người chẳng nói điều gì
Cả dự định tương lai
Cả những điều trước mắt
Có thể với chiếc xuồng con rời Mỹ Hoà Hưng
Như mọi người tìm kế sinh nhai, tìm việc
Hồ Thanh Điền thể hiện sự cảm phục về phong cách sống chân chính và sự khiêm tốn, ít nói, tính hay lam hay làm của lãnh tụ, bằng giọng thơ vừa kể, vừa triết lí nhẹ nhàng, nhưng đầy hiểu thấu và yêu kính:
Là người thợ, chẳng nói chi nhiều
Với công việc Người làm cật lực
Cần đấu tranh cho thợ thuyền, chính trực
Người cũng quên mình như công việc hằng ngày
Ơi buổi ban đầu Người chẳng nói nhiều đâu!
Nhà thơ dành trọn niềm ngưỡng mộ, ngợi ca đức độ của Bác Tôn ngay từ tựa đề bài thơ: Người chẳng nói chi nhiều. Đây cũng chính là tứ thơ xuyên suốt toàn bài, làm nên sự nhất quán thể hiện ý nghĩa, chủ đề bài thơ. Khổ thơ cuối đầy lắng đọng trong tình cảm trân trọng, suy nghiệm về hành trình hoạt động cách mạng của Bác Tôn. Khép lại bài thơ là những hình ảnh giàu xúc động, thể hiện bao cảm xúc nghẹn ngào của Bác trong ngày về thăm nơi chôn nhau cắt rốn :
Là Chủ tịch, Người cũng chẳng nói nhiều đâu
Lời nói nào thay được tình dân, nghĩa nước
Xa mấy mươi năm về quê, Người chỉ nói bằng ánh mắt
Ánh mắt như triệu triệu tâm hồn…
Có lời nói nào thay được!
Tác giả Hồ Thanh Điền có cả một chùm thơ 3 bài ngợi ca Bác Tôn, trong đó có bài Nhớ Bác, 4 khổ thơ, mỗi khổ 4 câu, câu thơ 7 chữ chở mang nhiều hình ảnh thơ súc tích, cảm nhận về cả hành trình hoạt động của Người. Giọng thơ Hồ Thanh Điền vừa tự sự, vừa triết lí, trang trọng tự hào mà trữ tình thắm thiết, chân thành nói hộ chúng ta lòng tri ân Người đã “mang gươm mở cõi”
… Lá cờ Hắc Hải bay từ ấy
Cho đến bây giờ vẫn uy nghi…
…Từ thuở thiếu thời đi lập cứ
Một thời nghĩa khí ánh hào quang
Mười bảy năm tù lao khổ lắm
Sử vàng, Người để chữ trung cang!
Cuộc sống đơn sơ, giàu đức hạnh
Vải bô ấp ủ trái tim hồng
Vinh, nhục, sang, hèn, lòng vẫn vậy
Đời trong như ngọc, trắng như bông
Tác giả Trần Dư dành nhiều cảm xúc viết về thời thanh niên Bác Tôn đi tìm lí tưởng, bắt đầu cuộc đời làm thợ, rồi làm thuỷ thủ. Hình ảnh, chi tiết thơ phong phú, mang âm hưởng sử thi, hoài niệm những năm tháng sục sôi, Bác khơi bùng ngọn lửa đấu tranh cách mạng.
Con vẫn nhớ hoài, Bác tuổi thanh niên
Sức vóc trẻ trai, cuộc đời làm thợ
Đất nước đau thương, bàn tay nô lệ
Đêm nằm mơ thấy những con tàu
Xưởng Ba Son ngột ngạt xăng dầu
Xưởng Ba Son bập bùng ngọn lửa
Ôi phóng túng, tự do là biển gió
Tiếng sóng bồn chồn, tiếng gọi khơi xa
Thơ Trần Dư vừa mang giọng điệu tâm tình gần gũi với thơ Tố Hữu, vừa mang chất giọng triết lí–chính luận của thơ Chế Lan Viên. Tác giả cảm nhận sâu sắc về con đường đi tìm lí tưởng sống của chàng trai Tôn Đức Thắng, giữa những năm tháng đất nước còn đắm chìm trong ách nô lệ :
Nỗi khát khao đạp xiềng xích tung ra
Đời lay lắt bát cơm chan nước mắt!
Nỗi khát khao trái tim lên tiếng hát
Theo cánh hải âu tìm lẽ yêu đời!
Con vẫn mê say bao nỗi bồi hồi
Người thanh niên đi xa quê và nhớ…
Giây phút Bác Tôn cắm cờ mừng cách mạng tháng Mười Nga, được Trần Dư khắc hoạ bằng những hình ảnh thơ dồn dập, sống động, khoẻ khoắn, với nhịp thơ rộn rã, hân hoan.
Pháo gầm chòng chành chiến hạm Rạng Đông
Bình minh mọc trên trời Nga rạng rỡ
Ôi trái tim trẻ trai như muốn vỡ
Trái tim muốn nổ tung thành pháo gầm!
Nồng nhiệt bao nhiêu, người trai xứ da vàng
Tóc bay xoả giữa trùng khơi gió cuốn…
…Lòng người trai như con tàu về bến đỗ
Bình minh cho quê hương với ngàn vạn ngọn cờ!
Ở khổ thơ cuối, Trần Dư đã nói về ý thức nối bước cha anh của bao thế hệ:
Con vẫn nhớ Bác hoài. Tuổi trai đẹp giấc mơ
Năm xưa ấy. Phải đâu năm xưa ấy!
Ôi tuổi thơ và ngọn cờ vẫy mãi
Cho chúng con vang khúc hát lên đường
Nhà thơ Trần Hữu Dũng cũng đã ghi lại chân dung Bác Tôn một cách cô đọng, giàu hình ảnh, giúp hình dung khá trọn vẹn về từng chặng đường đấu tranh. Qua đó thấy được con người, phong cách sống thanh cao, tình yêu lao động của người thợ năm nào, ngay khi đã là Chủ tịch nước.
Liệu có thể hình dung bước chân người thợ xưởng Ba Son
Ở Xêvatxtôpôn khói lửa, gió Hắc Hải lồng lộng
Hiên ngang trên chiến hạm France kéo cao cờ đỏ …
Liệu có thể hình dung người tù cặp rằn ở hầm xay lúa
Sóng biển vỗ triền miên theo hồi còi tàu cách mạng
Mười lăm năm lưu đày Côn đảo, khí phách vô song…
Liệu có thể hình dung người Chủ tịch nước sống ân cần giản dị
Lúc rỗi lôi bộ đồ mộc, đồ nguội trong nhà
Hàn đồ chơi của cháu, sửa xe đạp anh bảo vệ
Cuối đời để lại cho con chiếc đê khâu với lời dặn thiết tha:
“Bây giờ ba mắt kém rồi, con giữ mà dùng”
Trong tuyển tập thơ viết về An Giang, xuất bản mừng kỉ niệm 120 năm ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng, Trần Hữu Dũng có đến 5 bài thơ viết về Bác Tôn, trong đó có 1 bài viết về “Tấm lòng Bác Tôn gái” và 1 bài lấy cảm hứng về tình đồng chí của“Bác Hồ và Bác Tôn”. Đều là những bài thơ chân thành cảm xúc, sâu lắng nghĩa tình.
Phóng viên Thông tấn xã Liên Xô hỏi Bác Tôn gái ở Sầm Sơn
Với vẻ chất phác, trung hậu người đàn bà nông dân đồng bằng
sông Cửu Long nhỏ nhẹ đáp:
“Không mấy khi ông nhà tôi sống bên cạnh.
Hoạt động, bị bắt tôi đến khám giam thăm mới gặp, tôi mừng
gặp ông, lại buồn vì ông bị tù”
…
Yêu nhau chung thuỷ, sắt son có đất trời chứng giám
(Tấm lòng Bác Tôn gái)
Bài thơ khai thác một chi tiết rất cảm động :
Năm 1975 Bác về thăm vùng giải phóng miền Nam
Rưng rưng thắp lên bàn thờ nhà cũ nén nhang thơm
Về Bắc, trước mộ vợ Bác đứng lặng yên rơi nước mắt
Tác giả kết thúc bài thơ trong cảm nhận về tấm lòng Bác Tôn gái, trong mối quan hệ với nhân dân An Giang hôm nay :
Quá giang đò về thăm khu tưởng niệm Bác Tôn cù lao Ông Hổ.
Chợt vi vu câu hát vọng thê, vọng thê ơi hời!
Mùa nước nổi sục sôi ráng chiều đỏ rực
Tấm lòng người vợ trung trinh
Có dân An Giang nối dài cầu thương nhớ…
Trần Hữu Dũng viết về tình cảm đồng chí của Bác Hồ và Bác Tôn bằng những câu chữ mộc mạc, không tô vẻ nhưng chở mang bao nghĩa tình son sắt
Ở Hà Nội
Bác Hồ và Bác Tôn
Đầm ấm, mộc mạc
Chân thật, tự nhiên, sâu lắng
Cầm tay nhau trò chuyện dưới bóng mát nhà sàn
Bên hiên nhành phong lan toả hương ngây ngất
Hai người thợ năm xưa xa xứ tìm đường cứu nước
Hai tâm hồn thế kỷ sưởi ấm cho nhau
Có thể mượn thơ Trần Hữu Dũng để kết lại những cảm nhận về con người, sự nghiệp cách mạng của Bác Tôn và vùng đất An Giang – như Những ngụ ngôn ở An Giang (tựa đề một bài thơ khác của anh). Thâm thúy, tinh tế là những bài học để đời, định hướng cho bao thế hệ cháu con:
Chỗ cù lao Ông Hổ, xoáy nước cuộn chảy mênh mang
Trong ngôi nhà lá đơn sơ Bác Tôn về lui cui nhóm bếp
Bài ngụ ngôn đầu tiên anh thuộc lòng ở đây
Cách mạng – Tự do – Dân tộc…
…Những ngụ ngôn ở An Giang hiển hiện qua cuộc sống
Lấp lánh huyễn hoặc hệt sao trời dẫn lối anh đi.
Nhìn chung thơ viết về Bác Tôn có sự tương ứng khá rõ nét giữa cảm hứng với giọng điệu và mang tính thời đại. Nếu thơ sáng tác thời kì kháng chiến chống Mỹ lấy cảm hứng trữ tình – sử thi làm chủ đạo, với giọng điệu anh hùng ca, thì có thể thấy thơ viết về Bác Tôn giai đoạn sau ngày giải phóng có sự khác biệt. Vẫn trên nền cảm hứng trữ tình, vẫn là giọng điệu ngợi ca nhưng không phải mang âm hưởng anh hùng ca hào hùng mà là chất giọng tự nhiên, đầm ấm, yêu thương. Điều này cũng dễ hiểu, bởi người anh hùng – lãnh tụ Tôn Đức Thắng vốn là một người thợ xuất thân từ miền quê nghèo Nam bộ, cả đời làm cách mạng luôn sống cương trực, hiền hòa, bình dị. Viết về Người tất nhiên cũng xuất phát từ đó, với bao chi tiết hiện thực đời thường sống động, tự nhiên, gần gũi, thân thương.
Nhân kỉ niệm ngày sinh nhật Người 20-8-1888 – 20-8-2011 chúng ta cùng đọc, điểm qua một số trang thơ hay viết về Bác Tôn và miền quê Mỹ Hoà Hưng. Qua đây càng thêm tri ân, kính yêu Người, thêm tự hào về con người và mảnh đất quê hương.