Một kỷ niệm về Bác
Trung tuần tháng 4 năm 1946, tôi được lệnh vào nhận nhiệm vụ mới ở miền Trung Bộ. Khác với những đoàn quân Nam tiến trước đó – mỗi chuyến đi có đến hàng trăm, hàng nghìn người, chuyến này có một mình tôi. Và không hiểu sao lại có cả quân nhạc tiễn đưa rất oai nghiêm, giống như sáu tháng trước đó tôi từ chiến khu về Hà Nội. Nhớ hôm đầu tiên gặp Bác ở 48 Hàng Ngang, Bác nói vui: Chú về Hà Nội thì kèn trống đón mừng inh ỏi, đi đến đâu cũng nghe nói đến chi đội Quang Trung. Còn Bác thì đến lúc này vẫn chưa ai biết Bác là ai và ở đâu. Ở Việt Bắc, Bác là cụ Ké, còn về đây Bác là cụ Già.
Buổi tối trước hôm lên đường, Bác gọi tôi lên phòng làm việc, hỏi thăm tình hình gia đình, hỏi tôi có gì khó khăn. Tôi thưa với Bác là tôi đã chuẩn bị sẵn sàng. Trong phòng chỉ có hai bác cháu. Và tự nhiên tôi bỗng cảm thấy bùi ngùi. Ngày mai xa Bác rồi. Gần một năm được sống bên cạnh Bác, được Bác chăm sóc yêu thương, ân cần dạy bảo, giống như một người cha đối với một người con. Thời gian gần một năm được sống gần Bác, tôi như được qua một trường huấn luyện đặc biệt hiếm có. Tôi được Bác chú ý kèm cặp từ việc nhỏ đến việc lớn, từ cách suy nghĩ, phân tích tình hình đến tác phong cụ thể cần có của một cán bộ chỉ huy.
Bây giờ, trước lúc tôi đường nhận nhiệm vụ ở chiến trường xa xôi, Bác nói với tôi về nhân cách của một người làm tướng. Bác nói có nhiều loại tướng: mãnh tướng như Trương Phi, dũng tướng như Quan Vân Trường, hổ tướng như Triệu Tử Long... Các loại tướng như thế đều tốt, đều cần vì nhân dân ta sắp phải bước vào cuộc chiến đấu một mất một còn với kẻ thù hung bạo. Nhưng theo Bác, chúng ta phải có nhiều nhân tướng, vì cuộc chiến đấu của chúng ta là cuộc chiến đấu vì con người. Và Bác giải thích: Nhân tướng là người tướng hiểu con người, biết quý con người, biết dùng người và được mọi người yêu quý. Chỉ có những người tướng như thế mới trăm trận trăm thắng được.
Lời dạy đó của Bác Hồ mãi mãi nằm trong trái tim tôi suốt cuộc đời binh nghiệp.