Tấm lòng vì dân
Nguyễn Cư Trinh có tên hiệu là Dạm An, người xã An Hòa, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Cụ tổ 6 đời của ông là Trịnh Cam, người xã Phù Lưu Tràng, huyện Thiên Lộc, trấn Nghệ An (nay là xã Phù Lưu, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh) làm Thượng thư bộ Binh thời hậu Lê. Gặp lúc nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, ông bỏ triều không hợp tác với nhà Mạc lánh về quê, sau đó vào đất Thuận Hóa. Đến đời cha là Trịnh Đăng Đệ được chúa Nguyễn Phúc Chu cho đổi họ Trịnh ra họ Nguyễn Đăng là họ nhà chúa (năm 1708). Nguyễn Cư Trinh (đời thứ 8) là con thứ bảy của Nguyễn Đăng Đệ, tuổi nhỏ đã giỏi văn chương. Lúc lớn học rộng hay thơ lại có mưu lược.
Năm 1733, Nguyễn Cư Trinh thi đỗ sinh đồ (tú tài). Năm 1740, ông đi thi và đỗ hương tiến (cử nhân), rồi được cử giữ chức Tri phủ Triệu Phong. Năm 1750, ông được cử giữ chức Tuần phủ Quảng Ngãi. Trong lúc làm quan, nhìn thấy cảnh người dân bị chèn ép khổ sở, quan lại các cấp ức hiếp dân dã man, ông dâng sớ lên chúa Nguyễn Phúc Khoát. Lời sớ tâu rằng:
– Dân là gốc của nước, dân không bền thì nước tất không yên. Ngày thường không có sự cố kết dân tâm, khi có việc thì dựa vào đâu? Tôi trộm lo dân gian thói tệ đã quá, nếu cứ yên thường thủ cựu, không nhân thời thêm bớt, lập kỷ cương để sửa trị thì một xã còn không trị nổi nữa là một phủ. Nay tệ hại cho dân có ba việc là: Nuôi lính, nuôi voi, nộp tiền án. Còn ngoài ra những cái nhũng phí quá lệ cũng nhiều.
Những việc tệ hại đó ở kinh kỳ tôi không dám vượt chức, chỉ đem việc trong chức phận mà nói như sau: Dân phủ Quảng Ngãi đã nhận lệnh ở các vệ việc trưng thu thuế sai dư tô ruộng các thứ biệt tải, biệt nạp, vi tử, thuế đầu nguồn, lại chịu lệnh ở quan lại nha bản phủ và những người được sai đi săn. Đó là cái cảnh mười con dê mà chín người chăn, làm cho dân phải cùng khốn, thất nghiệp thực là đáng thương. Đã không có hằng sản thì làm sao giữ được hằng tâm. Đương lúc bình thì dân tâm còn rất dao động, đến khi có việc thì chế ngự làm sao cho kịp.
Cũng trong tờ sớ này, ông đã trình bày với nhà vua cần phải thay đổi bốn điều về các tệ nạn của xã hội đương thời như sau:
– Phủ huyện là chức trị dân, gần đây không giao trách nhiệm làm việc, chỉ cho khám hỏi án kiện. Xin từ nay về sau các tiền thóc thuế sai dư, tô ruộng các thứ biệt tải, biệt nạp, cùng ngụ, thuế đầu nguồn, nhất thiết ủy phó cho huyện thu biên, chuyển giao cho quan Quảng Nam để nộp cho khỏi cái lệ phiền nhiều của nhiều lại viên.
– Quan phủ huyện từ trước đến nay chỉ lấy việc bắt bớ tra hỏi làm lộc thường xuyên, do đó của dân càng hao, tục dân càng bạc. Nay xin định cấp cho thường lộc, cứ lấy liêm, tham, siêng, lười làm căn cứ thăng truất.
– Lậu đinh có hai thứ, có người tránh phu dịch, tiền thuế mà đi lang thang. Có người vì cơ hàn thiết thân mà xiêu bạt. Nay không chia đẳng hạng, nhất thiết phải vào sổ để thu thuế. Chúng hẳn sợ mà xiêu tán, hoặc làm trộm cướp, dân xã ấy lại phải đền bồi cho đủ thuế nhà nước thì chịu sao nổi? Nay xin xét lậu đinh nào còn có làm ăn sinh sống được thì thu thuế như lệ. Còn những người đói rét cùng khốn thì miễn thuế, tùy cách vỗ nuôi để cứu sống kẻ khốn cùng.
– Dân nên để cho tĩnh, không để cho động, động thì dễ loạn, tĩnh thì dễ trị. Nay sai người vào rừng săn bắn, đòi ngựa tìm chim, người sai đi không thể tất đức ý bề trên nhiễu hại dân một phương. Lại còn có người giả mạo danh nghĩa, đến đâu ức hiếp đó, dân đều oán thán. Xin từ nay sai người đi làm việc gì, đều có giấy tờ làm bằng, lúc đi lúc về trình tại quan địa phương, khiến có thể xét nghiệm phải trái thật giả. Ai nhiễu hại dân thì cho quan địa phương được tiện nghi xử trị, hoặc bắt giải đưa người ấy về tâu lên, may ra lòng dân yên tĩnh, khỏi dao động.
Với tờ sớ này, Nguyễn Cư Trinh muốn thay đổi cái tệ nhiều lại viên làm nhiễu dân, lời sớ rất kính thiết. Sau đó, ông được thăng lên làm Ký lục dinh Bố chính.
Lời bàn:
Trong sách “Đại Nam thực lục” có đoạn viết: Nguyễn Cư Trinh là người có cơ trí mưu lược, giỏi quyết đoán, phàm có kiến nghị tâu bày đều là nói ngay bàn thẳng. Và không chỉ là một danh tướng, ông còn là một nhà chính trị khôn khéo, một trung thần yêu nước thương dân. Ông dùng binh cương quyết, nhưng khi đạt được mục đích quân sự thì dùng chính sách khoan hồng nhân đạo, đồng thời chăm lo mở mang sinh kế cho nhân dân nên đạt kết quả chắc chắn và lâu dài. Ông bênh vực kỷ cương Nho giáo nhưng lại kiên quyết chống lại các thứ mê tín thịnh hành lúc bấy giờ. Có thể nói rằng, bằng tài năng và trí tuệ, bằng cả tấm lòng yêu nước thương dân và qua chiêm nghiệm thực tế, ông đã tập hợp được nhân dân để làm nên đại sự.
Từ nội dung của giai thoại trên cho thấy, người thời xưa làm quan không có mấy người được như Nguyễn Cư Trinh. Với ông, vinh hoa, phú quý không thay đổi được quan niệm làm quan của ông. Đó là làm quan là để phục vụ cho dân, cho nước, chớ không để bóc lột, ức hiếp dân. Và chính tư tưởng này mà Nguyễn Cư Trinh được hậu thế đời đời tôn vinh và cũng nhờ đó cuộc đời cùng với sự nghiệp của ông trường tồn cùng lịch sử dân tộc.
Sưu tầm
Cô Nguyễn Thanh Thảo
GVCN lớp 2/4