Logic cuộc đời
Trong cuốn sách “Người Do Thái dạy con” có một mẩu chuyện mà chắc rằng nếu ai đã được đọc và ngẫm nghĩ về nội dung của nó thì hẳn không bao giờ quên. Tuy rất ngắn nhưng sau khi đọc xong đã có không ít người cho là chuyện tầm phào, vô lý. Nhưng nghiền ngẫm thật kỹ từ những điều vô lý này thì người đọc hay người nghe cũng sẽ tìm ra những cái có lý trong đó.
Chuyện kể rằng, giáo sư Huser là một giảng viên tại trường đại học danh tiếng ở Israel. Vị giáo sư này có thói quen thường kể chuyện cho con nghe trước lúc đi ngủ. Ngày nào cũng vậy, ông thường đến bên giường rồi kể hoặc đọc cho con nghe một mẩu chuyện trên báo hoặc trong sách.
Hôm đó, giáo sư Huser đã đọc cho con trai nghe về mẩu chuyện có tựa đề “Ba người thợ săn” đăng trên tuần báo Giáo dục gia đình. Không như mọi ngày, ông thấy mẩu chuyện này rất khó kể và có nội dung vô cùng phi lý. Mẩu chuyện ấy như sau:
Có ba người thợ săn cùng vào rừng. Một người không biết bắn súng, hai người không mang theo súng. Họ gặp ba chú thỏ, trong đó có hai con thỏ đã trúng đạn và bỏ chạy, một con không trúng đạn nhưng đã gục ngã.
Sau đó, cả ba người tìm đến một căn nhà không có cửa, không có mái cũng chẳng có tường. Khi đến nơi, họ nói với người chủ nhà rằng:
– Ngài làm ơn cho chúng tôi xin một ít củi khô và cho mượn một cái nồi để chúng tôi luộc con thỏ đã bỏ chạy.
Nghe xong, ông chủ nhà trả lời:
– Nói thật với các ngài, nhà tôi có ba cái nồi, trong đó một cái đã mất đáy, hai cái thì đã vỡ tan từ rất lâu rồi. Các ngài muốn mượn cái nào?
– Thế thì tốt quá, ngài làm ơn cho chúng tôi mượn cái nồi không đáy ấy. Cả ba anh thợ săn đồng thanh trả lời. Và thế là họ đã dùng một cái nồi không đáy để luộc chín con thỏ, rồi cả ba người cùng làm một bữa ngon lành.
Đọc xong mẩu chuyện ấy, đêm đó giáo sư Huser không sao ngủ được. Mới sáng sớm ông đã viết thư gửi tòa soạn tuần báo Giáo dục gia đình và trong thư ông đã vạch rõ những điều phi logic của câu chuyện. Một là con thỏ đã trúng đạn làm sao còn chạy được, con thỏ không trúng đạn sao lại gục ngã. Hai là, con thỏ đã chạy thoát sao lại còn bị làm thịt. Ba là, nồi không đáy làm sao còn đun nấu được. Bốn là, làm gì có cái nhà nào không cửa, không mái, không tường.
Ngày hôm sau, nội dung bức thư của giáo sư được công bố trên báo. Nhiều bạn đọc đã tỏ ý ủng hộ, tán thành cách nhận xét này. Một năm sau, nhà giáo sư có một vị khách đến chơi. Đó là một ông bạn cũ rất thân của giáo sư. Hai người vừa nhấm nháp ly rượu vang vừa tâm sự. Lúc đó, ông bạn đã than phiền với giáo sư rằng, thời buổi bây giờ tình hình xã hội có nhiều tiêu cực quá. Sinh viên đại học tốt nghiệp xong không có việc làm phải lao động chân tay, nhiều kẻ quyền cao chức trọng mà nhân cách kém quá…
Một lúc sau, bỗng nhiên ông bạn hỏi giáo sư:
– Anh đã đọc rất kỹ chuyện “Ba người thợ săn” từ khá lâu rồi, bây giờ thì anh đã hiểu dụng ý của tác giả chưa?
Nghe bạn hỏi vậy, giáo sư sững người rồi im lặng, không trả lời. Thấy vậy, người bạn giải thích rằng:
– Một chân lý đơn giản nhất có khi rất khó phát hiện. Câu chuyện “Ba người thợ săn” có dụng ý dạy cho các cháu thiếu nhi biết rằng, trên đời này có nhiều chuyện không thể có lại có thể, nhiều chuyện có thể mà hóa ra không thể.
Lời bàn:
Vâng, lời giải thích từ người bạn của vị giáo sư trong mẩu chuyện trên rất đáng để chúng ta phải suy ngẫm. Bởi nếu tất cả mọi sự vật, hiện tượng trên trái đất này lúc nào cũng tuân thủ theo một chiều, tức là mọi cái có lý đều là chân lý thì cuộc đời này sẽ buồn tẻ và nhạt nhẽo biết mấy. Song, cũng may là thực tế cuộc sống không phải như vậy. Vì có những cái chúng ta tưởng như không thể là sự thật nhưng lại là sự thật và có cái tưởng như vô lý nhưng lại có lý.
Và lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng, càng trong khó khăn thì con người lại càng sáng tạo. Để tồn tại, chắc chắn ba người thợ săn kia phải tìm cách biến cái nồi không đáy thành có đáy để nấu chín “con thỏ”, nếu không họ sẽ chết đói. Thế mới hay rằng, sự khác nhau giữa logic của cuộc sống và logic của tư duy là ở chỗ có khi cái vô lý lại có thể trở thành cái có lý và ngược lại. May mắn, thành công, hạnh phúc sẽ đến với những ai tin vào điều đó.
Sưu tầm
Cô Nguyễn Thanh Thảo
GVCN lớp 2/4