Khai thác 5 bước dạy của phương pháp “Bàn tay nặn bột”:
Bước 1: Đưa ra tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề
- Tình huống xuất phát hay tình huống nêu vấn đề là một tình huống do GV chủ động đưa ra như là một cách dẫn nhập vào bài học. Tình huống xuất phát phải ngắn gọn, gần gũi, dễ hiểu với HS. Tình huống xuất phát nhằm lồng ghép câu hỏi nêu vấn đề. Tuy nhiên, có trường hợp không nhất thiết phải có tình huống xuất phát mới đề xuất được câu hỏi nêu vấn đề.
- Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học; cần đảm bảo yêu cầu phù hợp với trình độ, gây mâu thuẫn nhận thức và kích thích tính tò mò, thích tìm tòi, nghiên cứu của HS nhằm chuẩn bị tâm thế cho HS trước khi khám phá, lĩnh hội kiến thức. GV dùng câu hỏi mở, tuyệt đối không được dùng câu hỏi đóng (trả lời có hoặc không) đối với câu hỏi nêu vấn đề.
Ví dụ:
Khi dạy bài Không khí gồm những thành phần nào? GV tiến hành 1 thí nghiệm nhỏ cho học sinh quan sát: Đặt một cốc nước đá ngoài không khí, sau một lúc sẽ thấy thành cốc lấm tấm nước.Giáo viên nêu câu hỏi: Theo em, nước đó do đâu ra? Ngoài nước, trong không khí còn có gì nữa?
GV gợi ý một số cách thức tổ chức thực hiện để tìm hiểu vấn đề. Tùy vào đối tượng HS, những gợi ý này sẽ cụ thể đến mức nào. Tuy nhiên, GV lưu ý để không làm mất khả năng tư duy độc lập và niềm vui sáng tạo ở HS.
Ví dụ:
Bài “Cây con có thể mọc lên từ những bộ phận của cây mẹ” lớp 5, Tuần 27: Giáo viên dẫn dắt từ câu chuyện tranh cãi giữa hạt, thân, cành, lá xem ai là người giúp cây chào đời mà Đất Mẹ là người phân xử. Vậy nếu em là Đất Mẹ, em sẽ nói gì?
Đây là tình huống xuất phát và câu hỏi ban đầu mà giáo viên muốn giới thiệu với học sinh: Ngoài hạt, cây có thể mọc lên từ bộ phận nào khác của cây mẹ không?
Từ đó, giáo viên hướng học sinh vào vấn đề cần tìm hiểu “Cây con được mọc lên từ bộ phận nào của cây mẹ?”
Bước 2: HS bộc lộ quan điểm ban đầu
- Quan niệm ban đầu là những biểu tượng ban đầu, ý kiến ban đầu của học sinh về sự vật, hiện tượng trước khi được tìm hiểu về bản chất sự vật, hiện tượng. Đây là những quan niệm được hình thành trong vốn sống của học sinh, là các ý tưởng giải thích sự vật, hiện tượng theo suy nghĩ của học sinh, còn gọi là các “khái niệm ngây thơ”. Biểu tượng ban đầu không phải là kiến thức cũ, đã được học mà là quan niệm của học sinh về sự vật, hiện tượng mới (kiến thức mới) trước khi học kiến thức đó.
- Tạo cơ hội cho học sinh bộc lộ quan niệm ban đầu là một đặc trưng quan trọng của phương pháp bàn tay nặn bột. Biểu tượng ban đầu của học sinh là rất đa dạng và phong phú. Biểu tượng ban đầu là một chướng ngại trong quá trình nhận thức của học sinh. Chướng ngại chỉ bị phá bỏ khi học sinh tự mình làm thí nghiệm, tự rút ra kết luận, đối chiếu với quan niệm ban đầu để tự đánh giá quan niệm của mình đúng hay sai.
Ví dụ:
Bài “Cây con có thể mọc lên từ những bộ phận của cây mẹ” lớp 5. Để học sinh bộc lộ quan niệm ban đầu, giáo viên nêu câu hỏi:
+ Theo em, chồi sẽ mọc ra từ đâu? Hãy viết, vẽ vào giấy những suy nghĩ, hiểu biết của mình trong thời gian 3 phút. 8 bạn nhanh nhất được ưu tiên đính lên bảng lớp.
Học sinh có thể vẽ, viết vào giấy A4. Sau đó, giáo viên mời học sinh trình bày suy nghĩ của mình.
- Trong bước này, GV khuyến khích HS nêu những suy nghĩ, nhận thức ban đầu của mình về sự vật hiện tượng mới (kiến thức mới) trước khi học được kiến thức đó. Khi yêu cầu HS trình bày quan niệm ban đầu, GV có thể yêu cầu bằng nhiều hình thức biểu hiện của HS như có thể là bằng lời nói (thông qua phát biểu cá nhân), bằng cách viết hay vẽ để biểu hiện suy nghĩ. GV khuyến khích HS trình bày ý kiến của mình, biết chấp nhận và tôn trọng những quan điểm sai của HS khi các em trình bày biểu tượng ban đầu.
- Nếu một vài HS nêu ý kiến đúng, GV không nên vội vàng khen ngợi hoặc có những biểu hiện chứng tỏ ý kiến đó là đúng vì như thế vô tình làm ức chế các HS khác muốn bộc lộ quan niệm của mình.
Ví dụ: Bài Tre, mây, song – Khoa học lớp 5
Để HS bộc lộ quan niệm ban đầu, GV yêu cầu HS mô tả bằng lời những hiểu biết của mình về đặc điểm của tre, mây, song (thời gian 2 phút).
+ GV theo dõi phát hiện các biểu tượng ban đầu khác biệt.
+ Cho HS trình bày biểu tượng ban đầu về đặc điểm của tre, mây, song.
+ GV ghi nhanh lên bảng một số ý kiến tiêu biểu.
(Phần này giữ lại để so sánh với kết luận sau này).
- Khi HS làm việc cá nhân để đưa ra quan niệm ban đầu bằng cách viết hay vẽ thì GV nên tranh thủ đi một vòng quan sát và chọn nhanh những quan niệm không chính xác, sai lệch lớn với kiến thức khoa học. Nên chọn những quan niện ban đầu khác nhau để đối chiếu, so sánh ở bước tiếp theo của tiến trình phương pháp. Làm tương tự khi HS nêu ý kiến bằng lời. GV tranh thủ ghi những ý kiến khác nhau lên bảng.
- Sau khi có các quan niệm ban đầu khác nhau, phù hợp với ý đồ dạy học, GV giúp HS phân tích những điểm giống và khác nhau cơ bản giữa các ý kiến, từ đó hướng dẫn HS đặt câu hỏi cho những sự khác nhau đó. Đối với các quan niệm ban đầu phức tạp, GV nên cho HS làm việc theo nhóm hai người hoặc nhóm nhỏ sau khi làm việc cá nhân để chọn lọc lại ý tưởng.
Một số lưu ý khi lựa chọn quan niệm ban đầu để đưa ra thảo luận:
- Không chọn hoàn toàn các quan niệm ban đầu đúng với câu hỏi và cũng không chọn hoàn toàn các quan niệm ban đầu sai với câu hỏi.
- Nên lựa chọn các quan niệm vừa đúng vừa sai, chỉ cần chọn một quan niệm ban đầu đúng với câu hỏi (nếu có).
- Tuyệt đối không có bình luận hay nhận xét gì về tính đúng hay sai của các ý kiến ban đầu của HS.
- Khi viết, vẽ hay gắn hình vẽ của HS lên bảng, GV nên chọn một vị trí thích hợp, dễ nhìn và đảm bảo không ảnh hưởng đến các phần ghi chép khác. Giữ nguyên các quan niệm ban đầu này để đối chiếu, so sánh sau khi hình thành kiến thức cho HS.
- Sau khi lựa chọn các quan niệm ban đầu của HS, GV cần khéo léo gợi ý cho HS so sánh các biểu tượng giống hoặc khác nhau. Từ đó, giúp HS đề xuất các câu hỏi.
Một số lưu ý khi so sánh, phân nhóm quan niệm ban đầu của HS:
- Phân nhóm quan niệm ban đầu chỉ mang tính tương đối.
- Không nên đi quá sâu vào chi tiết.
- GV nên gợi ý, định hướng cho HS thấy những điểm khác biệt giữa các ý kiến liên quan đến các kiến thức chuẩn bị học.
- GV tuỳ vào tình hình thực tế của các ý kiến phát biểu hay nhận xét của HS để quyết định phân nhóm quan niệm ban đầu.
- Có những điểm khác biệt rõ rệt nhưng không liên quan đến kiến thức bài học, GV nên khéo léo giải thích cho HS ý kiến đó rất thú vị nhưng trong khuôn khổ kiến thức mà lớp các em đang học chưa đề cập đến vấn đề đó.
Quan niệm ban đầu của HS thay đổi tuỳ theo độ tuổi và nhận thức của HS. Do đó, cần hiểu tâm sinh lí lứa tuổi của HS để tổ chức hoạt động dạy học theo phương pháp bàn tay nặn bột. Để làm được điều này, giáo viên phải là người làm chủ lớp học, thiết lập bầu không khí thân thiện tích cực, chủ động giải quyết mọi tình huống, biết khích lệ hứng thú và tinh thần tích cực chủ động trong học tập cho học sinh. Nếu học sinh phát biểu sai, giáo viên khéo léo giải thích để các em vượt qua trở ngại tâm lí e dè, sợ sai không dám bày tỏ ý kiến. Điều này cần thực hiện thường xuyên trong mọi tiết học, mọi môn học để tạo không khí học tập tích cực, chủ động chiếm lĩnh kiến thức của học sinh.
Bước 3: HS đặt câu hỏi và đề xuất phương án thí nghiệm
- Đề xuất câu hỏi: Từ những khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu của HS, GV giúp HS đề xuất câu hỏi từ khác biệt đó. Chú ý xoáy sâu vào những sự khác biệt liên quan đến kiến thức trọng tâm của bài học.
- Đề xuất phương án thực nghiệm nghiên cứu: Từ các câu hỏi được đề xuất, GV nêu câu hỏi cho HS đề nghị các em đề xuất thực nghiệm tìm tòi nghiên cứu để tìm câu trả lời cho các câu hỏi đó. Sau khi HS đề xuất phương án thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu, GV nêu nhận xét chung và quyết định tiến hành phương pháp thí nghiệm đã chuẩn bị sẵn. Trường hợp HS không đưa ra được phương án thí nghiệm tìm tòi – nghiên cứu thích hợp, GV có thể gợi ý hay đề xuất cụ thể phương án nếu gợi ý mà HS vẫn chưa nghĩ ra (phương pháp quan sát, thực hành – thí nghiệm, nghiên cứu tài liệu,…)
Lưu ý khi HS Đề xuất câu hỏi:
- Khi một HS nào đó đã nêu ý kiến, GV yêu cầu HS khác trình bày các ý kiến khác hay bổ sung cho ý kiến mà HS trước đã trình bày. Những ý tưởng gần giống nhau thì viết gần nhau để tiện việc nhận xét.
- Đối với những ý tưởng phức tạp hay có nhiều ý kiến khác biệt, GV ghi chú tóm tắt lại ở một góc trên bảng để HS dễ theo dõi.
Ví dụ: Bài Cao su – Khoa học lớp 5
Từ những ý kiến ban đầu của của HS do nhóm đề xuất, GV tập hợp thành các nhóm biểu tượng ban đầu rồi hướng dẫn HS so sánh sự giống và khác nhau của các ý kiến trên
GV Định hướng cho HS nêu ra các câu hỏi liên quan
GV tập hợp các câu hỏi của các nhóm:
+ Tính đàn hồi của cao su như thế nào?
+ Khi gặp nóng, lạnh, hình dạng của cao su thay đổi như thế nào?
+ Cao su có thể cách nhiệt, cách điện được không?
+ Cao su tan và không tan trong những chất nào?
Đây là một bước khá khó khăn vì giáo viên cần phải chọn lựa các biểu tượng ban đầu tiêu biểu trong hàng chục biểu tượng của học sinh một cách nhanh chóng theo mục đích dạy học, đồng thời linh hoạt điều khiển thảo luận của học sinh nhằm giúp các em đề xuất câu hỏi từ những khác biệt đó theo ý đồ dạy học. Sau khi chọn lọc các biểu tượng ban đầu của học sinh để ghi chép (đối với mô tả bằng lời) hoặc gắn hình vẽ lên bảng hoặc vẽ nhanh lên bảng (đối với hình vẽ), giáo viên khéo léo gợi ý cho học sinh so sánh các điểm giống (đồng thuận giữa các ý kiến) hoặc khác nhau (không nhất trí giữa các ý kiến) các biểu tượng ban đầu. Từ những sự khác nhau cơ bản đó, giáo viên giúp học sinh đề xuất các câu hỏi.
Ví dụ: Bài “Thủy tinh” Khoa học lớp 5, từ các thể hiện suy nghĩ của mình về các tính chất của thủy tinh bằng cách viết, vẽ vào giấy và qua trình bày bằng lời, giáo viên yêu cầu học sinh:
+ Ý tưởng ban đầu của bạn nào giống nhau? Bạn nào có ý tưởng trái ngược nhau?
+ Bạn nào có cùng ý tưởng thứ nhất? Thứ hai? Thứ ba?
+ Các em di chuyển về nhóm ý tưởng của mình.
+ Các em thảo luận, nêu suy nghĩ, rồi ghi những điều thắc mắc của mình vào thẻ từ.
Theo yêu cầu của giáo viên, học sinh di chuyển về nhóm có cùng ý tưởng, thảo luận, đính các câu hỏi, thắc mắc lên bảng.
Lưu ý khi chia nhóm HS:
- Bố trí bàn ghế theo nhóm phù hợp với số học sinh, chia nhóm nhỏ 4-6 em/nhóm. Khoảng cách giữa các nhóm không quá chật, tạo điều kiện đi lại dễ dàng cho HS lên bảng trình bày, di chuyển khi cần thiết. Có chỗ dành riêng để các nguyên vật liệu chuẩn bị cho việc giảng dạy đảm bảo an toàn, thuận lợi học tập. Chú ý sắp xếp bàn ghế không nên gập ghềnh vì gây khó khăn cho HS khi làm một số thí nghiệm cần sự thăng bằng hoặc gây khó khăn khi viết.
- Thành viên nhóm nên thay đổi với mỗi nội dung học tập khác nhau để mọi HS đều có cơ hội thể hiện bản thân.
- Giáo viên yêu cầu HS cử nhóm trưởng điều hành, cử ra thư ký ghi kết quả thí nghiệm làm cơ sở để báo cáo sau khi thực hiện thí nghiệm. Các nhóm tiến hành công việc kết hợp ghi chép cá nhân vào vở thực hành. Đối với các lớp nhỏ (lớp Một, Hai), HS chủ yếu là ghi nhớ và trả lời miệng.
Lưu ý khi HS đề xuất thí nghiệm nghiên cứu hay phương án tìm câu trả lời:
- Đối với ý kiến hay vấn đề đặt ra đơn giản, ít phương án hay thí nghiệm chứng minh, có thể cho HS trả lời trực tiếp phương án mà HS đề xuất.
Ví dụ: Bài “Thủy tinh” Khoa học lớp 5, sau khi học sinh nêu các thắc mắc, giáo viên gợi ý: Với các thắc mắc của bạn, theo các em làm thế nào để giải đáp?
Giáo viên cần xoáy sâu vào các điểm khác biệt gây tranh cãi để giúp HS tự đặt câu hỏi thắc mắc và thôi thúc HS đề xuất các phương án để tìm ra câu trả lời. Một số phương án tìm câu trả lời có thể không phải làm thí nghiệm mà tìm câu trả lời bằng cách nghiên cứu các tài liệu (SGK, tờ rơi thông tin khoa học do GV cung cấp…), hoặc quan sát (trên vật thật, trên mô hình, tranh vẽ khoa học…).
Ví dụ: Bài “Cây con có thể mọc lên từ những bộ phận của cây mẹ” lớp 5. Học sinh đưa ra nhiều ý kiến cho rằng “Cây con mọc lên từ lá/ củ/ thân…”. Giáo viên yêu cầu học sinh nêu một số vật thật đã chuẩn bị như: mía, tỏi, hành tím, khoai tây, sống đời, gừng…Học sinh có thể quan sát củ, thân hoặc cành lá cây nào đó đã mọc chồi hoặc tìm thông tin, xem đoạn clip trên mạng về sự hình thành, lớn lên, phát triển của cây con…
- Đối với các kiến thức phức tạp, thí nghiệm cần thực hiện để kiểm chứng, HS khó đề xuất đầy đủ và chuẩn xác, GV có thể chuẩn bị một loạt các vật dụng liên quan đến việc làm thí nghiệm, giới thiệu đến học sinh. Sau đó yêu cầu các nhóm lên lấy các đồ dùng cần thiết để làm thí nghiệm chứng minh. Giáo viên cần chuẩn bị trước các nguyên vật liệu cho các thí nghiệm dự kiến để có kết quả như mong muốn, vận dụng tối đa những nguyên liệu sẵn có, dễ kiếm để thực hiện thí nghiệm. Đảm bảo độ an toàn, tính khả thi của các hoạt động quan sát, thí nghiệm trong nhiều hoàn cảnh dạy học khác nhau.
Ví dụ: Bài “Thủy tinh” Khoa học lớp 5, để học sinh có thể phát hiện và nắm được một số tính chất, công dụng của thủy tinh, sau khi HS đề xuất phương án, giáo viên giới thiệu một số nguyên vật liệu đã chuẩn bị, đồ dùng thí nghiệm cho các nhóm như:
+ Đèn cồn, hộp quẹt, ly, khay.
+ Thủy tinh, viên bi, que thủy tinh, bóng đèn hỏng, que tre, mây, đinh gỉ.
Học sinh sẽ hội ý nhanh trong 1 phút để chốt lại phương án và các vật dụng thí nghiệm nhóm cần.
Giáo viên lưu ý cả lớp: cẩn thận khi cầm vật dụng và tiến hành thí nghiệm.
Bước 4: HS tiến hành thực nghiệm
- Từ các phương án thí nghiệm tìm tòi – nghiên cứu HS đã nêu, GV khéo léo nhận xét và lựa chọn dụng cụ thí nghiệm hay các thiết bị dạy học thích hợp để HS tiến hành nghiên cứu.
- Nếu phải làm thí nghệim thì ưu tiên thực hiện thí nghiệm trực tiếp trên vật thật. Một số trường hợp không thể tiến hành thí nghiệm trực tiếp trên vật thật có thể làm trên mô hình hoặc cho HS quan sát tranh vẽ.
- Khi tiến hành thí nghiệm, GV nêu rõ yêu cầu và mục đích thí nghiệm hoặc yêu cầu HS cho biết mục đích của thí nghiệm chuẩn bị tiến hành. Sau đó GV mới phát các dụng cụ, vật liệu thí nghiệm tương ứng với hoạt động.
- Các thí nghiệm được tiến hành lần lượt tương ứng với các môđun kiến thức. Mỗi thí nghiệm được thực hiện xong, GV nên dừng lại để HS rút ra kết luận.
Khi HS làm thí nghiệm, GV bao quát lớp, quan sát từng nhóm. Nếu thấy nhóm hoặc HS nào đó làm sai theo yêu cầu thì GV chỉ nhắc nhở trong nhóm đó hoặc nói riêng với HS đó. GV nên yêu cầu cá nhân hoặc các nhóm thực hiện độc lập để tránh HS nhìn và làm theo cách của nhau.
Ví dụ: Bài Âm thanh – Khoa học lớp 4
HS làm thí nghiệm (cá nhân+ nhóm nhỏ, mỗi nhóm làm 01 thí nghiệm)
Thí nghiệm 1: làm các lần như sau
+ Gõ trống và quan sát mặt trống, lắng nghe tiếng động phát ra (mạnh/nhẹ)
+ Gõ trống và đặt tay ngay liền sau khi gõ, lắng nghe tiếng động phát ra
+ Gõ trống có rắc ít giấy vụn lên quan sát mặt trống, lắng nghe tiếng động phát ra (mạnh/nhẹ)
Thí nghiệm 2: làm các lần như sau
+ Gảy dây đàn và quan sát dây đàn (mạnh/nhẹ)
+ Gảy dây đàn và lấy tay khác chặn tay lên nó ngay sau khi gẩy, nghe âm thanh
Thí nghiệm 3: làm các lần như sau
+ Đặt tay lên cổ họng khi nói/khi ngừng nói/ khi nói to, nói nhỏ.
Ghi chép quan sát cá nhân:
Lần thí nghiệm
|
Thấy gì?
|
Giải thích/nhận xét của em
|
|
|
|
|
|
|
Kết luận của em: Âm thanh phát ra do………………………………
Lưu ý
Muốn HS tiến hành thực nghiệm thành công, giáo viên cần:
- Đưa ra lệnh thực hiện rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu để giúp học sinh nhớ, hiểu và làm theo đúng hướng dẫn.
- Giáo viên quan sát, bao quát lớp khi học sinh làm thí nghiệm.
- Đối với thí nghiệm cần quan sát hiện tượng để rút ra kết luận, giáo viên lưu ý học sinh chú ý vào hiện tuợng để lấy thông tin, bám sát mục đích thí nghiệm.
- Đối với thí nghiệm cần đo đạc và lấy số liệu, giáo viên yêu cầu học sinh ghi chép số liệu để rút ra nhận xét.
- Cùng một thí nghiệm kiểm chứng nhưng các nhóm khác nhau, học sinh có thể sẽ bố trí thí nghiệm khác nhau với các vật dụng và cách tiến hành khác nhau theo quan niệm của các em.
- Chú ý vấn đề an toàn trong quá trình các em làm thí nghiệm.
- Để ghi chú trong vở thực hành, giáo viên hướng dẫn, yêu cầu học sinh dùng ít nhất 2 màu mực: Một loại mực dành cho ghi chú cá nhân và thảo luận nhóm; một loại mực dành cho việc ghi chép sự thống nhất sau khi thảo luận cả lớp (kết luận kiến thức). Phân biệt hai loại mực như vậy, học sinh sẽ dễ dàng nhìn thấy những quan niệm của mình ban đầu thế nào, kiến thức đúng ra sao. Điều này rất có hiệu quả trong việc xóa bỏ “chướng ngại” (các quan niệm ban đầu trước khi học kiến thức).
- Trong quá trình HS thảo luận theo nhóm, GV di chuyển đến các nhóm, phát hiện những nhóm thực hiện lệnh thảo luận sai để điều chỉnh hoặc chọn ý kiến kém chính xác nhất của một nhóm nào đó để yêu cầu trình bày đầu tiên trong phần thảo luận, cũng như nhận biết nhanh ý kiến của nhóm nào đó chính xác nhất để yêu cầu trình bày sau cùng.
Bước 5: HS so sánh kết quả sau thực nghiệm với dự đoán và rút ra kết luận.
- Sau khi thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu, các câu trả lời dần dần được giải quyết, các giả thuyết được kiểm chứng, kiến thức được hình thành, GV có nhiệm vụ tóm tắt, kết luận và hệ thống lại để HS ghi vào vở coi như là kiến thức của bài học.
- Trước khi kết luận chung, GV nên yêu cầu một vài ý kiến của HS cho kết luận sau khi thực nghiệm. GV khắc sâu kiến thức cho HS bằng cách cho HS nhìn lại, đối chiếu lại với các ý kiến ban đầu trước khi học kiến thức mới.
Ví dụ: Bài Cao su – Khoa học lớp 5
+ GV tổ chức cho các nhóm báo cáo kết quả sau khi trình bày thí nghiệm
+ GV tổ chức cho các nhóm thực hiện lại thí nghiệm về một tính chất của cao su (nếu thí nghiệm đó không trùng với thí nghiệm của nhóm bạn)
+ GV hướng dẫn HS so sánh kết quả thí nghiệm với các suy nghĩ ban đầu của mình ở bước 2 để khắc sâu kiến thức
+ GV kết luận về tính chất của cao su: cao su có tính đàn hồi tốt; ít bị biến đổi khi gặp nóng, lạnh; cách điện, cách nhiệt tốt; không tan trong nước, tan trong một số chất lỏng khác; cháy khi gặp lửa.
Lưu ý hướng dẫn học sinh phân tích thông tin, hiện tượng quan sát khi nghiên cứu để đưa ra kết luận:
- GV giới thiệu thêm sách, tài liệu hay thông tin trên internet mà HS có thể có điều kiện tiếp cận được để giúp các em hiểu sâu hơn các kiến thức được học, không bằng lòng và dừng lại với những hiểu biết yêu cầu trong chương trình.
- GV hướng dẫn HS kĩ năng chú ý đến các thông tin chính để rút ra kết luận tương ứng với câu hỏi trong khi làm thí nghiệm, quan sát hoặc nghiên cứu tài liệu để tìm ra câu trả lời.
- GV gợi ý, định hướng để HS phân tích thông tin, hiện tượng quan sát khi nghiên cứu để đưa ra kết luận theo trình tự:
+ Vấn đề nghiên cứu, quan sát, tìm hiểu của nhóm: HS phải trình bày một cách ngắn gọn vấn đề mà các em vừa tìm hiểu.
+ Đồ dùng cần thiết cho việc nghiên cứu: HS liệt kê những ĐDDH mà các em đã lựa chọn và sử dụng trong quá trình làm việc của nhóm.
+ Mô tả kế hoạch làm việc của nhóm: HS phải báo cáo về quy trình thực hiện công việc của nhóm, mô tả công việc của từng thành viên và của cả nhóm. Thông qua việc mô tả này, GV có thể nắm bắt được cách tổ chức thực hiện công việc, mức độ tham gia công việc của các thành viên trong nhóm,…
- Kết quả nghiên cứu, tìm hiểu mà nhóm đã đạt được: HS báo cáo trung thực kết quả của hoạt động nghiên cứu mà nhóm tìm ra thông qua hoạt động thí nghiệm hay thực hành.
- Kết luận khoa học về vấn đề nghiên cứu: HS đưa ra các kết luận khoa học đã được thống nhất trong nhóm dựa trên các kết quả nghiên cứu.
- Thuận lợi, khó khăn khi làm việc, cách khắc phục của nhóm nếu có.
- Kiến nghị liên quan đến vấn đề cần tìm hiểu nếu có.
Tiến trình tìm tòi nghiên cứu khoa học trong phương pháp “Bàn tay nặn bột” là một vấn đề cốt lõi, quan trọng. Tiến trình tìm tòi nghiên cứu của học sinh không phải là một đường thẳng đơn giản mà là một quá trình phức tạp. Học sinh tiếp cận vấn đề đặt ra qua tình huống (câu hỏi lớn của bài học); nêu các giả thuyết, các nhận định ban đầu của mình, đề xuất và tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu; đối chiếu các nhận định (giả thuyết đặt ra ban đầu); đối chiếu cách làm thí nghiệm và kết quả với các nhóm khác; nếu không phù hợp học sinh phải quay lại điểm xuất phát, tiến hành lại các thí nghiệm như đề xuất của các nhóm khác để kiểm chứng; rút ra kết luận và giải thích cho vấn đề đặt ra ban đầu. Trong quá trình này, học sinh luôn luôn phải động não, trao đổi với các học sinh khác trong nhóm, trong lớp, hoạt động tích cực để tìm ra kiến thức.
Lưu ý hướng dẫn học sinh so sánh kết quả thu nhận được và đối chiếu với kiến thức khoa học
- Sau khi khi thực hiện thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu, các câu trả lời dần dần được giải quyết, các giả thuyết được kiểm chứng, kiến thức được hình thành, tuy nhiên vẫn chưa có hệ thống hoặc chưa chuẩn xác một cách khoa học.
- GV khắc sâu kiến thức cho HS bằng cách cho HS nhìn lại, đối chiếu lại các ý kiến ban đầu (bước 2). Như vậy từ những quan niệm ban đầu sai lệch, sau quá trình thực nghiệm tìm tòi- nghiên cứu, chính HS tự phát hiện ra mình sai hay đúng mà không phải do GV nhận xét một cách áp đặt. Chính HS tự phát hiện những sai lệch trong nhận thức và tự sửa chữa, thay đổi một cách chủ động. Những thay đổi này sẽ giúp HS ghi nhớ một cách lâu hơn, khắc sâu kiến thức.
- Sử dụng bảng tương tác hỗ trợ việc đánh giá kết quả học tập của học sinh, so sánh, tổng kết, kết luận kiến thức sẽ đem đến cho học sinh những kiến thức hết sức sinh động, trực quan, dễ hiểu, nhớ lâu, tạo ấn tượng mạnh, làm cho học sinh hào hứng hơn khi tham gia học tập, ...
- GV có nhiệm vụ tóm tắt, kết luận và hệ thống lại để HS ghi vào vở coi như là kiến thức của bài học. Trước khi kết luận chung, GV nên yêu cầu một vài ý kiến của HS cho kết luận sau khi thực nghiệm.
Ví dụ: Bài “Thủy tinh” Khoa học lớp 5
Giáo viên mời các nhóm lần lượt trình bày thí nghiệm của nhóm, rút ra kết luận, so sánh với ý kiến ban đầu.
à Giáo viên chốt, mở rộng:
+ Thủy tinh trong suốt giúp ta có thể nhìn thấy mọi vật qua nó dễ dàng.
+ Thủy tinh rất cứng nhưng dễ vỡ. Phải cẩn thận khi sử dụng.
+ Thủy tinh không có tính đàn hồi.
+ Thủy tinh không bị gì, không bị axit ăn mòn nên nhiều công trình bằng thủy tinh có thể tồn tại hàng trăm năm.
+ Thủy tinh không hút ẩm nên được dùng làm vật dụng để chứa đựng các chất lỏng rất phổ biến như chai lọ, chén dĩa, nồi.
+ Thủy tinh có thể tái chế được. Chúng ta nên phân loại rác thải để tiếp tục tái chế, sản xuất ra các vật hữu ích khác.