Ngày 7-1-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì cuộc họp Chính phủ để nghe báo cáo của Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Bộ Canh nông sau chuyến kinh lý tại Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An và bàn việc động viên nhân dân cả nước hướng về và chi viện cho Nam bộ. Tại cuộc họp này, người đứng đầu nhà nước đã vạch ra một nhiệm vụ cấp bách là “Cần phải thống nhất quân đội ngay để có thể tiếp viện cho Nam bộ”.
Cùng ngày hôm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự lễ khai giảng Trường Cán bộ Tự vệ Hồ Chí Minh. Trước 75 học viên của khóa cán bộ đầu tiên được tổ chức tại thủ đô Hà Nội, Bác căn dặn: “Nói miệng ai nói cũng được. Ta cần phải thực hành.
Kháng chiến, kiến quốc, ta phải cần kiệm. Nhưng tự mình phải cần và kiệm trước đã. Trước hết mình phải làm gương, gắng làm gương trong anh em và khi đi công tác gắng làm gương cho dân”. Phân tích yếu tố tinh thần, Bác Hồ đưa ra một nguyên lý sáng suốt: “Muốn làm được ta phải: quyết tâm, tín tâm và đồng tâm”.
Nhưng thiện chí của chúng ta không ngăn được chiến tranh đã lan rộng cả nước. Ngày 7-1-1947, cách đây 62 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết “Thư gửi Chính phủ, Quốc hội và nhân dân Pháp” nêu rõ lập trường rất mềm mỏng: “Chính phủ và nhân dân Pháp chỉ cần có một cử chỉ công nhận độc lập và thống nhất của nước Việt Nam là chấm dứt được tai biến này, hòa bình và trật tự sẽ trở lại ngay tức khắc. Dân tộc Việt Nam đang chờ đợi cử chỉ đó”.
12 năm sau sự kiện trên ( ngày này cách đây 56 năm), mục tiêu thống nhất vẫn chưa hoàn thành, ngày 7-1-1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục chủ trì cuộc họp của Bộ Chính trị để bàn về “Đường lối Cách mạng miền Nam” và đưa ra ý kiến chỉ đạo: “Phải lấy chính trị, lực lượng quần chúng là chính. Phải đoàn kết toàn dân, trừ bọn phản dân. Đề án viết phải có lý có tình. Cũng có thể nói: Giải phóng miền Nam là nhiệm vụ thần thánh của nhân dân ta”.
Nửa thập kỷ sau đó đã diễn ra một cao trào, từ phong trào Đồng khởi đến cuộc đương đầu chống Chiến tranh Đặc biệt của Hoa Kỳ mà đỉnh cao là hai chiến thắng vang dội từ Ấp Bắc (năm 1963) đến Bình Giã (cuối năm 1964).
Với bút danh “Chiến Sĩ”, Bác viết bài đăng báo Quân đội Nhân dân ngày 7-1-1965 với đầu đề “Điện Biên Phủ nhỏ và Nhịp cầu vàng”. Bài báo một mặt vinh danh hai trận thắng trên là “Điện Biên Phủ nhỏ” nhưng để đi đến thắng lợi hoàn toàn còn cần bắc một “Nhịp cầu vàng” để nước Mỹ rút lui khỏi cuộc chiến tranh mà không bị mất mặt.
Thực tiễn cho thấy, sau cuộc Tổng tiến công Mậu Thân (năm 1968), Mỹ đã phải bước vào bàn đàm phán tại Paris và 5 năm sau đó, “Nhịp cầu vàng” đã tạo cơ hội cho Mỹ “rút lui mà không bị mất mặt”... Để rồi không đầy 2 năm sau, miền Nam hoàn toàn được giải phóng...