Ngày 17-1-1926, trên báo Thanh Niên xuất bản tại Quảng Châu (Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc viết bài “Báo chí bình dân” đưa ra một quan niệm về báo chí cách mạng. Bài báo viết: “Chúng tôi bất chấp (xem thường) việc sử dụng những từ mỹ miều, văn phong lịch lãm, câu chữ đong đưa, nhịp câu đăng đối song hành, những sự tô vẽ văn chương mà các nhà nho ham chuộng. Nhưng ngược lại, chúng tôi gắng sức vì lợi ích của tất cả mọi người, dùng một văn phong sáng sủa, chính xác và dễ hiểu.
Vì mục đích của chúng tôi là: 1. Đánh trả sự tàn bạo của người Pháp, 2. Khích lệ dân tộc An Nam liên kết lại, 3. Làm cho họ thấy được nguyên nhân những đau khổ, đói nghèo của họ và chỉ ra cho họ làm thế nào để tránh được những điều đó nên bản báo của chúng tôi làm tròn nhiệm vụ là hồi kẻng báo động... Tiếng đàn chắc chắn hay hơn tiếng kẻng, nhưng trước mối họa đang đe dọa chúng ta, tốt nhất là đánh kẻng còn hơn gảy đàn!”.
20 năm sau sự kiện trên, ngày 17-1-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện văn tới bộ trưởng ngoại giao các nước Liên Xô, Hoa Kỳ và đại diện Trung Quốc tại Liên hiệp quốc “thiết tha yêu cầu công nhận nền độc lập và nhận Việt Nam vào Hội đồng Liên hiệp quốc”. Đây là lần đầu tiên chính phủ Việt Nam gửi một văn bản chính thức đặt vấn đề với 3 quốc gia sáng lập Liên hiệp quốc: “Sự có mặt của chúng tôi trong hội nghị sẽ có ích nhiều trong việc giải quyết một cách nhanh chóng và hòa bình các vấn đề ở Đông Nam Á châu hiện nay”.
Lịch sử cho thấy, phải bằng một cuộc đấu tranh lâu dài tới 30 năm sau đó (1976), Việt Nam mới chính thức gia nhập Liên hiệp quốc với tư thế của một quốc gia độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Cùng ngày, tham dự cuộc họp giám đốc và chủ tịch các ủy ban công sở ở Hà Nội, Bác có “Lời khuyên anh em viên chức” (về sau đăng thành một bài báo) trong đó nhấn mạnh đến 4 đức tính là: “Cần, kiệm, liêm, chính. Cần, anh em viên chức phải tận tâm làm việc, một người làm bằng hai, bằng ba người. Và phải tôn trọng kỷ luật. Anh em phải theo nguyên tắc là có việc mới cần đến người, chứ không phải là có sẵn người nên phải tìm việc cho làm. Kiệm là phải biết tiết kiệm đồng tiền kiếm được, cũng như các vật liệu và đồ dùng trong công sở. Rút bớt hết những gì không cần thiết, chớ phao phí giấy má và các thứ của công. Phao phí những thứ đó là phao phí mồ hôi nước mắt của dân nghèo. Chớ tưởng tiết kiệm những cái cỏn con như mẩu giấy, ngòi bút là không có ảnh hưởng. Một người như thế, trăm người như thế, vạn người như thế, công quỹ đã bớt ra được một số tiền đáng kể, lấy ở mồ hôi nước mắt dân nghèo mà ra. Có cần, có kiệm, không tiêu đến nhiều tiền, anh em viên chức mới có thể trở nên liêm, chính để cho người ngoài kính nể được”.