(12-1-1933), sau khi Tòa án Anh ở Hồng Kông ra lệnh thả, Nguyễn Ái Quốc quyết định đi Anh, nhưng tàu vừa cập cảng Singapore thì chính quyền sở tại theo yêu cầu của nhà cầm quyền ở Hồng Kông ra lệnh cho nhà cách mạng Việt Nam phải quay lại nơi xuất phát. Cách đó mới hơn một năm (tháng 6-1931), Bộ thuộc địa Pháp đã cảnh báo“Việc trả tự do cho Nguyễn Ái Quốc chỉ có thể làm trầm trọng thêm những hoạt động có hại của phong trào Đông Dương mà các Sở an ninh Đông Dương đều biết là ông ta đã tập trung tất cả trí thông minh, quyền lực và sự nổi tiếng của mình”.
14 năm sau, ngày 12-1-1947, lần đầu tiên kể từ khi chiến tranh lan rộng, Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời một nhà báo Mỹ trong đó một lần nữa bày tỏ “Nhân dân Việt Nam hy vọng Mỹ sẽ giúp các dân tộc nhỏ giành được độc lập như Tổng thống Rudơven thường nói” đồng thời sẵn sàng tiếp đón những phóng viên Mỹ muốn đến tìm hiểu tình hình Việt Nam.
Vậy mà 20 năm sau đó (1967), Mỹ chẳng những không ủng hộ nền độc lập của Việt Nam mà còn trở thành kẻ trực tiếp tiến hành cuộc chiến tranh khốc liệt trên cả hai miền Nam, Bắc nước ta. Đó cũng là lúc phong trào chống chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam đang dâng cao trên khắp thế giới.
Với một tầm nhìn xa, một mặt Bác cổ vũ mạnh mẽ tinh thần chiến đấu của quân dân trên các chiến trường, mặt khác lại rất quan tâm chỉ đạo việc mở ra mặt trận ngoại giao nhân dân. Ngày 12-1 năm đó, Bác tiếp đoàn Tòa án Quốc tế sang Việt Nam điều tra tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ và cùng ngày đã tiếp Giáo sư H.S. Atxmôrơ, chủ bút tờ “Nhật báo Acansat” cùng hai nhân vật nữa là những người đã nhận sứ mạng của Bộ Ngoại giao Mỹ thăm dò khả năng chấm dứt chiến tranh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tâm sự một cách chân tình và thẳng thắn: “Tôi chưa có thời gian nào để lấy vợ và lập gia đình. Tôi nói với thanh niên Việt Nam rằng họ là con cháu tôi, vì vậy tôi sống rất bình yên và giản dị. Tôi ngủ ngon ngay cả khi có việc ném bom của các ông”.
“Chúng tôi không đánh nước Mỹ. Chúng tôi không phạm một hành động đối địch nào vào lãnh thổ các ông... Trong khi những hành động chiến tranh còn tiếp diễn thì các ông đừng mong chúng tôi đến bàn thương lượng. Làm như vậy không phải là thương lượng mà đó là đi xin hòa bình, là đầu hàng... Khi nào chấm dứt bom thì cuộc đối thoại sẽ bắt đầu”; “Nhân dân chúng tôi là người có lý trí, biết suy nghĩ, yêu hòa bình. Chúng tôi muốn kết thúc cuộc chiến tranh này. Nhưng nền độc lập, tự do của Việt Nam không bao giờ lại bị đưa ra thương lượng”.
Cuộc tiếp xúc này là tín hiệu để phía Mỹ nhận thức được thiện chí có nguyên tắc của phía Việt Nam nhằm đi đến bàn hội nghị đã diễn ra ngay sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy vào mùa xuân năm Mậu Thân (1968) tại Paris (Pháp).